Đọc đoạn trích sau:
(Tóm tắt phần đầu: Hoàng triều về đời niên hiệu Vĩnh Thịnh có một vị tiến sĩ tên Đinh Hoàn, người làng An Ấp tỉnh Nghệ An. Vợ thứ của ông vốn là con quan họ Nguyễn, tính tình đoan trang, giỏi may vá, lại có tài thơ phú nên ông vừa yêu vừa kính trọng. Năm Ất Tỵ, triều đình cử ông làm sứ thần đi Trung Quốc kết mối bang giao. Người chồng đi sứ, gặp thời tiết mùa đông lạnh giá, bị cảm hàn, bệnh ngày càng trầm trọng và mất vào đêm 30 tháng Chạp. Người vợ từ khi chồng đi xa, lòng lo buồn mà sinh bệnh. Khi biết tin chồng mất thì có ý quyên sinh, người nhà hết lời khuyên nhủ.
Người nhà khuyên giải không ăn thua gì có ý đề phòng cẩn thận không rời phu nhân một bước. Một hôm, phu nhân đốt đèn ngồi một mình, khi ấy là mùa thu muộn, gió vàng hiu hắt, cây khuya xào xạc, sâu tường nỉ non, tiếng đập vải lạnh lùng như giã vào lòng người cô phụ, trăng suông như rọi vào giọt lệ Vương Sinh. Nỗi thương tâm khiến phu nhân đờ đẫn, nhìn đâu cũng toàn thấy âu sầu. Phu nhân càng thêm thê thảm, gục xuống bàn mà nức nở khiến cõi lòng chìm sâu vào cõi đê mê. Trong cơn dật dờ đó thấy một người khăn vuông đai rộng từ xa tới gần, nhìn kĩ hóa ra là chính chồng vậy. Phu nhân đón chào, mừng quá chảy nước mắt mà rằng:
Từ khi cách biệt đã bốn năm rồi, biết bao nỗi sầu bi, mộng hồn tản mát, không nơi nào là không tìm tung tích lang quân, ấy thế mà lang quân chẳng có đoái hoài gì đến thiếp. Nếu bảo rằng trần gian và thiên thượng hai nơi cách biệt, thì sao Thuấn phi(1) có hội ngộ, Chức Nữ(2) lại tương phùng, vậy lang quân đối với thiếp rất là bạc tình.
Ông buồn nét mặt mà rằng:
Ta từ khi về chầu thiên đình, được trông coi về việc bút nghiên, nơi thiên tào công việc nhiều, không có thì giờ đến thăm nàng, còn tấm lòng khăng khít thủy chung không bao giờ thay đổi.
Phu nhân muốn lưu ông ở lại tự tình. Ông vỗ về nói:
Chết sống là lẽ thường xưa nay, hợp tan là tuần hoàn việc thế. Vị Ngọc Tiên(3) có duyên tái hợp, Dương Thái Chân(4) cơ ước lai sinh. Nàng không cần phải bi phiền về nỗi hạc lánh gương tan, cái ngày chúng ta gặp nhau gần đến rồi.
Nói xong, có một trận thanh phong, không biết ông biến đi đâu mất. Phu nhân thương khóc chợt tỉnh dậy, sai thị nữ ra xem trời đất chỉ thấy sương mù trắng mờ, đêm đã gần sáng rồi.
Từ đó phu nhân lại càng có ý chán đời, nhưng chưa có dịp. Đến ngày lễ tiểu tường(5) ông, người nhà bận việc, phu nhân ở trong buồng xé cái áo mà ông tặng ngày trước tự thắt cổ chết. Đến khi người nhà biết thì phu nhân đã tắt thở rồi. Cả nhà thương cảm, tống táng theo lễ. Việc ấy tâu lên, triều đình cho lập đền thờ, đề bảng nêu ra cửa, khắc chữ “Trinh liệt phu nhân từ”, ban cấp tế điền, bốn mùa có tế lễ, người làng cầu đảo đều có linh ứng.
(Trích Người liệt nữ ở An Ấp, Truyền kì tân phả, Đoàn Thị Điểm, in trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 1, Nguyễn Đăng Na giới thiệu và tuyển soạn, NXB Giáo dục, 1997, tr 344-357)
Chú thích:
(1) Thuấn phi: vợ vua Thuấn, Nga Hoàng và Nữ Anh hai chị em (con vua Nghiêu) đều lấy Thuấn, khi mất làm thần sông Tương.
(2) Chức Nữ: tích Ngưu Lang Chức Nữ, hàng năm được gặp nhau một lần vào ngày mồng 7 tháng 7
(3) Vị Ngọc Tiên: đời Đường, Vị Cao lúc hàn vi, ở trọ nhà họ Khương, chung tình với nàng Ngọc Tiên. Cao tặng nàng một cái vòng tay, hẹn 7 năm đến cưới làm vợ. Quá hạn không đến, nàng tự sát. Cách đó 13 năm, Cao được làm Tiết độ sứ Ba Thục, có người dâng một ca sĩ rất đẹp tên là Ngọc Tiên, Cao nhận rõ diện mạo y như nàng Ngọc Tiên ngày trước.
(4) Dương Thái Chân: Dương Quý phi bị chết ở núi Mã Ngôi, sau lại tái sinh cùng Đường Minh Hoàng kết làm vợ chồng lần nữa.
(5) Lễ tiểu tường: lễ tang chẵn một năm, cũng gọi là luyện tế.
Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):
Câu 1. Xác định ngôi kể chuyện của đoạn trích trên.
Câu 2. Chỉ ra 03 điển tích, điển cố được sử dụng trong đoạn trích trên.
Câu 3. Nêu cảm nhận của anh/chị về tâm trạng của người vợ qua những câu văn sau:
Một hôm, phu nhân đốt đèn ngồi một mình, khi ấy là mùa thu muộn, gió vàng hiu hắt, cây khuya xào xạc, sâu tường nỉ non, tiếng đập vải lạnh lùng như giã vào lòng người cô phụ, trăng suông như rọi vào giọt lệ Vương Sinh. Nỗi thương tâm khiến phu nhân đờ đẫn, nhìn đâu cũng toàn thấy âu sầu.
Câu 4. Nhận xét về vai trò của yếu tố kì ảo được sử dụng trong đoạn trích trên.
Câu 5. Từ mối tình của cặp vợ chồng trong đoạn trích, anh/chị hãy nêu suy nghĩ của mình về lòng thủy chung trong tình yêu.
Gợi ý:
Câu 1: Đoạn trích trên kể ở ngôi kể thứ 3.
Câu 2: 03 điển tích, điển cố được sử dụng trong đoạn trích là: Chức Nữ, Vị Ngọc Tiên, Dương Thái Chân.
Câu 3:
- Tâm trạng của người vợ qua những câu văn:
+ Nỗi nhớ chồng khôn nguôi khi cách xa chồng
+ Nỗi cô đơn, quạnh vắng trong cảnh một mình đơn chiếc
Tâm trạng của người vợ được miêu tả qua ngoại cảnh, qua hình ảnh so sánh độc đáo, ấn tượng.
Câu 4:
- Yếu tố kì ảo được sử dụng trong đoạn trích truyện: cuộc gặp gỡ, trò chuyện, tự tình của người vợ và người chồng đã mất trong đêm khuya.
- Tác dụng:
+ Làm tăng thêm sức hấp dẫn, lôi cuốn của đoạn trích.
+ Thể hiện tình cảm vợ chồng thủy chung, sâu sắc, vượt qua cả cách trở âm dương.
+ Thể hiện quan niệm của nhà văn về lẽ sống chết, hợp tan ở đời.
Câu 5:
- Mối tình của cặp vợ chồng trong đoạn trích: đó là mối tình đẹp nhưng phải chịu nhiều chia cắt. Dù cách trở âm dương, họ vẫn tìm về nhau, vẫn một lòng hướng về nhau.
- Suy nghĩ về lòng thủy chung trong tình yêu:
+ Lòng thủy chung là một điều cần thiết để xây dựng tình yêu vững bền. Lòng thủy chung sẽ giúp hai người vượt qua những khó khăn, cách trở và luôn hướng về nhau.
+ Mỗi người trong tình yêu cần vun đắp lòng thủy chung để tình yêu được bền vững.
Để lại bình luận