“Làm thơ, ấy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói, tức là chữ - để thể hiện một trạng thái tâm lý đang rung chuyển khác thường”.
(Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam 2007, trang 51)
Anh/chị có suy nghĩ gì về ý kiến trên? Bằng hiểu biết về một số tác phẩm thơ ca, hãy làm sáng tỏ.
“Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần.”
Một nhà văn, muốn sáng tác một tác phẩm hay, tồn tại mãi với thời gian, thì ngoài sự hiểu biết rộng rãi, tài năng bẩm sinh còn phải có cảm xúc thật sự tự đáy lòng mình, thì mới sáng tác được. Bên cạnh đó còn là tài năng sử dụng ngôn ngữ, nghệ thuật một cách đầy thẩm mỹ, nhân văn. Trong Mấy ý nghĩ về thơ, Nguyễn Đình Thi đã từng khẳng định: “Làm thơ, ấy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói, tức là chữ - để thể hiện một trạng thái tâm lý đang rung chuyển khác thường”. Và đến với Thơ Mới, ta được bắt gặp những rung động lạ thường của Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử như thế.
Sáng tạo nghệ thuật quả là một công trình đầy khó khăn, phức tạp, không phải ai muốn cũng làm được. Hiếm ai có thể “dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói, tức là chữ”. “Chữ” ở đây không chỉ hiểu đơn giản là vỏ bọc âm thanh mà trong đó ngôn từ còn được sử dụng, được tổ chức một cách nghệ thuật. Ngôn từ trong văn chương không phải là ngôn từ thô ráp như trong cuộc sống hàng ngày mà nó đã được gọt rũa bằng bàn tay khéo léo của người nghệ sĩ để làm nên tác phẩm văn học có giá trị nhất. Bởi “yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn từ”. Gọt rũa được những ngôn từ hay, độc đáo trong tác phẩm chính là một phàn thành công của người nghệ sĩ. Phải chăng ngôn từ trong văn học không chỉ đơn thuần là một kí hiệu bình thường mà nó còn đòi hỏi phải chạm đến trái tim người đọc, phải “thể hiện một trạng thái tâm lý bất thường”. Tức là qua ngôn từ, nhà thơ ghi lại trạng thái tâm hồn mình đang có những biến chuyển, rung động sâu sắc, mạnh mẽ, căng thẳng, những say mê khác thường, những cảm xúc chỉ thăng hoa một lần rồi vụt tắt. Nói cách khác, cội nguồn của sáng tác văn học chính là nguồn cảm hứng trong lòng mỗi nhà văn. Và ngôn từ là nơi ghi dấu lại những thăng trầm trong cảm xúc đó. Câu nói của Nguyễn Đình Thi thật sâu sắc, câu nói khẳng định được tầm quan trọng của ngôn từ trong quá trình sáng tác. Cảm xúc, suy nghĩ, ưu biểu hiện của nhà thơ có chạm đến người đọc hay không đều phải bắc qua cây cầu ngôn ngữ.
Những cây cầu ngôn ngữ ấy dù cho có gập ghềnh, chông gai đến như thế nào thì tác phẩm cũng “thể hiện một tâm thái rung chuyển khác thường”. Bởi văn học là nghệ thuật của ngôn từ, Văn học ra đời để phản ánh hiện thực cuộc sống vừa để bày tỏ những cảm xúc, suy nghĩ của nhà văn về hiện thực. Mỗi một hiện thực hiện ra trước mắt thì người nghệ sĩ đều phải nhào nặn, tái tạo lại, khoác cho nó một tấm áo mới trở thành ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện cái vô cùng, vô tận của cuộc đời, tâm hồn con người một csch hình tượng. Phải chăng vì người nghệ sĩ không bao giờ được phép dửng dưng, lạnh lùng trước những gì mình trông thấy để từ đó phản ánh vào trogn tác phẩm của mình một cách rõ nét, chân thực nhất. Nếu một tác phẩm mà chỉ có những từ ngữ vô hồn, vụng dại thì sao thành một tác phẩm trường tồn? Mà bên cạnh đó, thi sĩ phải gửi gắm tâm trạng, cảm xúc sâu xa của tâm hồn mình. Đó là tình cảm mãnh liệt, trào sôi không thể kìm nén, nhưng được chọn lọc dưới sự kiểm soát của lý trí để mài rũa ra những ngôn ngữ phát sáng nhất.
M.Bati đã từng nói: “Thiếu tình cảm thì có thể làm những câu thơ có vần chứ không thể làm thơ được”. Đúng vậy “Làm thơ ấy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời…thường” . Vì một lệ, sáng tạo văn học, thơ ca là một hoạt động trên trang giấy mà chỉ có những người biết mài rũa, chắt lọc mới có thể hoàn thành được quá trình ấy. Cảm nhận được hiện thực là điểm khởi đầu, nhưng dùng “chữ” để đưa nỗi trăn trở ấy đến được với người đọc thì người nghệ sĩ mới hoàn thành được cả mộ quá trình. Bởi lẽ, khi đến với một tác phẩm văn học, người đọc phải tiếp xúc với vỏ bọc ngôn từ thì mới có thể chạm được đến chiều sâu lắng bên trong. Chính vì thế, ngôn từ có một vai trò vô cùng quan trọng đối với một quá trình sáng tác. Văn chương luôn đòi hỏi ở người nghệ sĩ một khả năng sáng tạo từ ngữ, câu văn, hình ảnh độc đáo. Đây cũng là yêu cầu đối với người nghệ sĩ trong sáng tác. Và có thể nói, bước đi của ngôn ngữ thơ đã mang lại cho văn học và đặc biệt là Thơ mới khả năng thể hiện tiếng nói sâu kín trong tâm hồn con người, thích hợp kiểu con người cá nhân thành thực, con người tâm linh, con người vô thức, tiềm thức. Nhờ ngôn ngữ và hình thức nghệ thuật mang phong cách riêng, Xuân Diêu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính đã gửi gắm bao nỗi niềm tâm sự của mình vào trong thi phẩm của mình lần lượt Xa Cách, Tràng Giang, Đây Thôn Vĩ Dạ, Mưa Xuân.
Ở Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, những rung động khác thường đầu tiên khởi nguồn từ một niềm ao ước thầm kín bên trong lại cất lên như một lời mời mọc từ bên ngoài, nỗi hoài niệm vốn âm u lại mang gương mặt của khát khao rực rỡ, nó được thể hiện qua hình ảnh thơ mới lạ, ngôn ngữ thơ tinh tế, nghệ thuật so sánh cách điệu hóa. Điều đầu tiên chúng ta cần khai thác là câu hỏi tu từ mở đầu “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Nó mang lại nhiều các hiểu nhưng đặt vào kết cấu bài thơ ta hiểu rằng câu hỏi tu từ này là của chính tác giả. Nhà thơ đã tự phân thân để hỏi chính bản thân mình. Sự phân thân và những sắc thái cảm xúc đan xen trong cùng một câu hỏi đã cho thấy tình yêu tha thiết, sự gắn bó sâu sắc của tác giả với cảnh sắc và con người thôn Vĩ.
Ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử dùng trong những chữ đầu thật tinh khiết và trong sáng. Lớp ngôn từ đầu tiên mà chúng ta cần khai thác đó là “nắng hàng cau, nắng mới lên”. “Nắng hàng cau” là một chi tiết hé mở điểm nhìn nghệ thuật mang màu sắc hội họa độc đáo gắn liền với làng quê Việt Nam, gợi lên trong lòng người đọc một nỗi niềm quê hương làng mạc gần gũi. Tác giả đã sử dụng từ ngữ rất giản dị “nắng mới lên” khiến ta liên tưởng đến nắng mới lên trong thơ Lưu Trọng Lư: “Mỗi lần nắng mới hắt bên song”. Đây là nắng mới báo hiệu hè về, nắng đầu mùa làn thức dậy những kỉ niệm của đứa bé mồ côi mẹ từ thuở thơ ấu. Còn nắng trong thơ Hàn Mặc Tử là ánh nắng ban mai thanh khiết trong lành của ngày mới, mở ra không gian trong trẻo, những cảm xúc êm đềm thi vị
Lớp ngôn từ thứ hai mà chúng ta cần khai thác “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Mà trước hết là từ “mướt”. Trong câu thơ này, nó không dừng lại ở việc miêu tả độ mướt- độ mỡ màng mà còn như bao hàm trong nó một sức sống căng tràn, một nội lực từ bên trong đành phô ra ngoài lá cây, cành cây một sự mượt mà, óng ả, đầy xuân sắc. Và để cụ thể hoá sắc xanh của khu vườn, thi sĩ đã dùng nghệ thuật so sánh: “xanh như ngọc”. Ngọc đã được sử dụng như một vật liệu mang tính trực quan mà cũng ước lệ trong truyền thống. Trong thơ, Hàn Mặc Tử hay so sánh với ngọc để tuyệt đối hóa tột cùng vẻ đẹp quý phái, sang trọng của đối tượng như vậy. Hình ảnh so sánh này đã làm toát nên vẻ đẹo thanh bình của làng quê Việt Nam. Nếu như cả bài thơ chỉ có một đại từ “ai” thì không có gì đáng nói vì ý nghĩa phiếm chỉ của nó đã được khai thác nhiều trong ca dao, thơ ca. Nhưng ở bài thơ này, từ “ai” được lặp lại bốn lần và đều được đặt trong hình thức câu hỏi tu từ: “ vườn ai mướt quá xanh như ngọc”; “ai biết tình ai có đậm đà”; “thuyền ai đậu bến sông trăng đó”. Đại từ “ai” trong những câu thơ này đề thể hiện nỗi xót xa bởi thực tại ngắn ngủi, mong manh. Nhà thơ bị đẩy vào cảnh ngộ éo le nên cảm thấy cái đẹp của cuộc sống đều là tuộc về ai đó ngoài tầm tay mình. Tất cả những từ ”nắng”, những ”vườn”, những ”con thuyền”, “vầng trăng”, … tất cả đã tạo nên một tập hợp hình ảnh rất sống về cuộc đời trong tâm trí Hàn Mặc Tử, khi ông, trong một cảnh ngộ riêng có tính bi kịch, bị gạt ra ngoài guồng quay của nó và chỉ có thể đứng từ xa, hướng đến cuộc đời, để ngưỡng vọng và khao khát. Làm day dứt thêm nỗi nhớ và khát khao, tác giả còn sử dụng bút pháp cách điệu hóa và chấm phá:“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Có người cho rằng đây là gương mặt của con người thôn Vĩ, cũng có người cho rằng đó là gương mặt của người trở về thôn Vĩ trong mặc cảm chia lìa. Lại có người căn cứ vào câu: “ ặt em vuông tự chữ điền” và gắn với mối tình Hàn Mặc Tử - Hoàng Cúc mà cho rằng đó là gương mặt của Hoàng Cúc. Dù hiểu theo cách nào thì sự hiện diện của gương mặt chữ điền qua bút pháp cách điệu hóa cũng là hình ảnh thể hiện vẻ đẹp mộc mạc ẩn chứa cốt cách chất phác,tạo nên nét đẹp duyên dáng, thâm trầm rất riêng của xứ Huế. Bút pháp chấm phá đã vẽ nên vẻ đẹp hài hòa của con người và thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên vừa thơ mộng, vừa tràn đầy sức sống đã làm nền, tô điểm cho vẻ đẹp của con người. Câu thơ thứ tư đã khép lại hoàn chỉnh bức tranh thôn Vĩ.
Bằng những từ ngữ biểu cảm, hình ảnh đẹp, nghệ thuật nhân hóa một cái tôi lại một lần nữa biến chuyển khác thường: mặc cảm chia lìa, hoài vọng khát vọng được chạm trổ lên:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Hình ảnh gió mây trôi dạt luôn gợi một nỗi buồn và thường gió thổi mây bay tức là gió và mây vốn dĩ vận động cùng chiều nhưng ở câu thơ này điệp từ “gió”, “mây” kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 đã tạo thành hai vế tiểu đối khiến người đọc thấy gió đóng khung trong gió, mây cuộc trong mây. Gió có thổi thì mây mới bay, nay lại được đặt ở hai thế hoàn toàn khác biệt, nó gợi lên sự cô đơn đến tuyệt đối. Sự chia lìa đã thấm sâu vào bản chất của vũ trụ, diễn tả thấm thía nỗi buồn trong lòng người. Hay hơn cả ở hai câu đầu vẫn là từ “lay”: động từ này diễn tả sự vận động lặp đi lặp lại như vô thức gợi lên một nỗi buồn lặng lẽ thấm thía. Một chữ “lay” như thế ta cũng đã từng gặp trong ca dao:
“Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em.”
Trong ca dao, từ “lay” tô đậm sự trống vắng của cảnh, trống trải của long người. Còn câu thơ của Hàm Mặc Tử, chữ “lay” giữa vai trò rất quan trọng. Nó nối liền giữa hai câu thơ trên - thế giới đau thương do cảm nhận qua mặc cảm chia lìa với hai câu thơ dưới là thế giới của ước mơ, khát vọng. Nhãn tự của Đây Thôn Vĩ Dạ còn nằm ở chữ “ kịp”. Theo tiến sĩ Chu Văn Sơn: “chữ “kịp” lâu nay bị bỏ quên, bởi nó lặng lẽ khiêm nhường chứ không bóng bẩy ồn ào. Nhưng nó vẫn đẹp trong quên lãng. Chữ “kịp” mới mang bi kịch của tâm hồn ấy, thân phận ấy...”. “Tối nay” là khoảng khắc thời gian ngắn gủi, nghiệt ngã của Hàn Mặc Tử. Ta không thể khẳng định chắc chắn rằng “tối nay” là một tối nào cụ thể. Nhưng ta nhận ra một lời khẩn cẩu khẩn khoản khẩn thiết qua giọng thơ khắc khoải và qua chữ “kịp” kia. Nếu như trăng không về kịp thì kẻ sĩ hoàn toàn rơi vào trạng thái tuyệt vọng, vĩnh viễn đau thương. Như vậy từ “kịp” còn cho ta thấy một quan niệm sống, một tâm thế sống: sống là chạy đua với thời gian. Quan niệm này không phải hoàn toàn mới mẻ nhưng với Hàn Mặc Tử, nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó không mới, bởi vì Xuân Diệu từng có quan niệm như vậy: “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm
Qua cách sử dụng từ ngữ biểu cảm, câu hỏi tu từ, điệp ngữ đã dấy lên lên một niềm mong ngóng là thường vừa ló rạng đã vội hoá thành một mối hoài nghi:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Cụm từ “khách đường xa” gợi bao ý nghĩa. Có người cho rằng đó là hình ảnh con người thôn Vĩ mà tác giả luôn lien tưởng tới; cũng có ý kiến cho rằng đó là sự phân thân của Hàn Mặc Tử. Ông luôn phải sống trong nỗi mặc cảm mình chỉ là người khách qua đường. Điệp ngữ lặp lại hai lần trong một câu thơ khiến cho hình ảnh con người trong giấc mơ vốn đã nhạt nhòa thấp thoáng lại càng nhỏ bé dần, mờ dần rồi khuất hẳn. Cách sử dụng ngôn ngữ tài hoa của Hàn Mặc Tử gợi cho người đọc nhớ tới những câu thơ nổi tiếng của Nguyễn Bính:
“Hôm qua xuống bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…”
Nếu ở khổ một là “mướt quá” thì ở khổ ba lại là “trắng quá”. “Trắng quá” là một sắc trắng kì lại bất ngờ. Ngôn ngữ thơ điên là ngôn ngữ cực tả. Đây là cách cực tả về mức độ của màu trắng một cách đấy tính ảo giác khiến cho sắc trắng của áo em đến độ lạ lùng.Với Hàm Mặc Tử, đó là cái đẹp mà thi sĩ có vươn tay cũng không với tới, có rượt đuổi cũng không bao giờ tới đích. Bài thơ có kết cấu độc đáo, vừa đứt đoạn vừa nhất quán; lối tạo hình giản dị mà tài hoa; ngôn ngữ thơ trong sáng; giọng điệu nổi bật là giọng đau thương khắc khoải đã thể hiện lên tâm trạng của nhân vật trữ tình hay chính là Hàm Mặc Tử: nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng; tiếng nói của một ý thức sâu sắc về cá nhân mà lại thấy chuỗi ngày sống của mình trôi qua vô nghĩa: yêu tha thiết cuộc sống mà quỹ thời gian ngắn ngủi, khao khát được giao cảm với đời
Nếu Đây Thôn Vỹ Dạ khơi gợi trong ta những rung cảm mãnh liệt về một tâm thế níu đời, một hình thức nghệ thuật độc đáo đứt đoạn, siêu thực thì đến với “Tràng Giang”- Huy Cận ta lại bắt gặp một hồn thơ sầu ảo não với phong vị nghệ thuật cổ điển hiện đại giao hòa. Bằng hệ thống hình ảnh mang đậm phong vị Đường thi, ngôn ngữ đậm màu sắc cổ điển,… tác giả đã khắc họa thành công bức tranh sông nước tràng giang vừa cổ kính vừa bình dị, ẩn hiện trong đó là cái tôi thơ mới trĩu nặng nỗi niềm cô đơn tột cùng giữa dòng đời.
Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những ngôn từ cực tả. Từ láy “điệp điệp” gợi ra một sự vận động liên tiếp của hàng ngàn con sóng, không gian sông nước rộng mở. Sóng lại được miêu tả qua chữ “gợn” là sự vận động trên bề mặt, đặc biệt qua nghệ thuật nhân hóa cho thấy song không phải là hình ảnh thiên nhiên vô tri mà nó còn mang tâm trạng con người. Đó là một nỗi buồn trĩu nặng. Không gian đã được mở rộng hơn qua cụm từ “nước song song”, mở ra ở bề rộng theo sự vận động nhịp nhàng của những con sóng và vươn theo chiều dài, theo những dòng trôi. Cụm từ “sầu trăm ngả” gợi ý nghĩa sâu sắc. “Sầu” là một trạng thái tâm hồn của con người, ở đây lại được dùng với số từ “sầu trăm ngả” vì thế nỗi buồn hiện lên một cách hữu hình và vô cùng vô tận. Có thể nói ngôn ngữ thơ mới lạ lần đầu xuất hiện trong thơ mới lãng mạn Việt Nam nhưng cảm xúc thơ rất thật.
Nếu như các nhà thơ cổ điển khi viết về sông nước đều sử dụng hình ảnh ước lệ như cánh bèo hoặc bông hoa trôi thì Huy Cận đưa vào thơ của mình hình ảnh củi một cành khô. Tất cả những hình ảnh đó cũng rất thi vị độc đáo nhưng không thi vị gợi cảm nhiều. Hình ảnh “củi một cành khô” thể hiện sự bứt phá tính chất ước lệ thơ ca truyền thống mà vẫn thi vị. Nó là sự lựa chọn hoàn hảo và phù hợp nhất. Cành củi lênh đênh phiêu dạt giữa dòng còn làm nổi bật sự cô đơn, nhỏ bé vô định. Biện pháp đảo ngữ đưa hình ảnh củi lên đầu câu để nhấn mạnh sự phiêu dạt của nó, khiến ta liên tưởng đến những kiếp người nhỏ bé bơ vơ. Con người, vì nhiều lẽ, bị đẩy đưa, lưu lạc “mấy dòng”. Đây không chỉ là chuyện của những sự vật nhỏ bé, yếu ớt giữa sóng nước mênh mang không chỉ là chuyện của vật, “không chỉ là chuyện một mình Huy Cận” mà là “nỗi buồn chung của con người”. Ta nhận thấy cảnh sắc thiên nhiên đã có sự khác biệt, bức tranh thiên nhiên đã có thêm nhiều chi tiết: cồn nhỏ, làng xa và nỗi buồn cũng có sắc điệu riêng. Cái độc đáo còn ở chỗ, câu thơ có cấu trúc đặc biệt: hình ảnh cồn nhỏ đứng giữa hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” nên câu thơ không chỉ gợi buồn mà còn gợi cảm giác quá nhỏ nhoi, thưa thớt. Huy Cận đã tâm sự đại ý rằng khi viết câu thơ này chịu ảnh hưởng từ câu thơ nổi tiếng trong “Chinh phụ ngâm”:
“Non kì quạnh quẽ trăng treo
Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò.”
Chính vì vậy, câu thơ của Huy Cận cứ phảng phất âm hưởng của thơ ca cổ điển. Quả thật, từ “đìu hiu” diễn tả sự chuyển động nhẹ nhàng của gió, gió thổi nhẹ hiu hắt. Như vậy, không gian phải thật tĩnh lặng và rất vắng vẻ. Ta gặp ở đây bút pháp lấy động tả tĩnh, một thủ pháp thường gặp trong thơ Đường.
“Nắng xuống trời lên, sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Phê bình hai câu thơ này, TS. Chu Văn Sơn đã thể hiện được khả năng thẩm bình tuyệt hay, tuyệt khéo của mình: “Câu trên là sự vô biên được mở về chiều cao. Câu dưới là sự vô biên về cả bề rộng và chiều dài. Có một khoảng không gian đang giãn nở ra trong cụm từ “nắng xuống trời lên”. Hai động từ ngược hướng “lên” và “xuống” đem lại một cảm giác chuyển động rất rõ rệt. Nắng xuống đến đâu, trời lên đến đó. Và nó được hoàn tất bởi cụm từ “sâu chót vót”. Những từ: “xuống”, “lên”, “dài”, “rộng” là những từ miêu tả cảm giác cụ thể về không gian khiến cho không gian như được mở ra đến vô cùng, vô tận. Cách sắp xếp từ ngữ theo cặp đối xứng đã tạo ra độ dãn mở của không gian. Nghệ thuật tương phản “nắng xuống trời lên” tô đậm cảm giác không gian, dường như không gian tầng thấp và tầng cao được nối liền. Ở đây “sông dài trời rộng” tương phản với “bến cô liêu” càng nhấn mạnh sắc thái cô đơn, buồn vắng trước sự bao la của vũ trụ, vừa gợi suy ngẫm về sự nhỏ bé hữu hạn của con người trước không gian lớn lao.
Bốn câu thơ cuối bài là đã góp phần đưa “Tràng giang’ trở thành một trong những thi phẩm hay của phong trào thơ mới bởi nghệ thuật xây dựng hình ảnh thơ sáng tạo, sử dụng từ ngữ tinh tế vừa cổ điển vừa hiện đại. Những câu thơ này đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh chiều tà hùng vĩ tráng lệ, thấm đẫm một nỗi buồn tình yêu quê hương của tác giả:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều xa”
Hình ảnh mây chiều được thể hiện qua những từ ngữ có giá trị gợi tả cao. Từ láy “lớp lớp” để lại ấn tượng cụ thể cho người đọc về rất nhiều đám mây được xếp chồng lên nhau, trùng điệp ở phía chân trời xa. Ánh hoàng hôn chiếu vào làm thành những ngọn núi bạc. Đây là sự so sánh ngầm đã khắc họa một bức tranh cổ điển. Bức tranh thiên nhiên chiều tà ở đây khác hẳn với cảnh chiều trong thơ trung đại. Trong thơ ca trung đại cảnh chiều thường hiện lên ảm đạm còn trong thơ Huy Cận nó hiện lên sinh động, hùng vĩ. Cảnh còn thêm sinh động nhờ từ “đùn”. Chữ “đùn” như một nhãn tự làm cho cảnh hoàng hôn không phải là một bức tranh tĩnh tại mà sinh động có hồn qua sự vận động của cảnh vật. “Cánh chim” là thi liệu quen thuộc dường như không thể thiếu trong thơ ca khi viết về buổi chiều. Trong ca dao, nó là tín hiệu điểm báo bước đi của thời gian: “Chim bay về núi tối rồi”. Trong “Truyện Kiều”, hình ảnh cánh chim vừa thông báo thời gian, vừa nói lên dự cảm không lành của Thúy Kiều: “Chim hôm thoi thóp về rừng”. Cánh chim trong thơ Huy Cận vừa là tín hiệu điểm nhịp bước của thời gian. Thời gian chuyển mình từ trưa ngả sang chiều “Nắng xuống trời lên sâu chót vót” đến đây bóng chiều đã ập xuống. Cánh chim còn là tín hiệu của nỗi buồn, sự cô đơn giữa không gian hoang vắng, trời nước bao la. Hình ảnh cánh chim trong buổi chiều tà giữ mênh mông trời đất là sự hóa thân của cái tôi trữ tình thời thơ mới, một cái tôi đơn độc nhỏ bé luông muốn khẳng định sự iện hữu của mình với cuộc đời.
Khép lại thi phẩm, nỗi buồn hóa thân trong dáng dấp của khao khát đoàn tụ, sum vầy, được yêu thương với hình ảnh: “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”. Huy Cận là người lập lờ gọi tên nỗi buồn “buồn điệp điệp”, rồi chính ông cũng là người giải mã nỗi buồn cho độc giả cùng thấu. Nỗi buồn ấy được Huy Cận lí giải là “lòng quê”. Với cách dùng như vậy, tác giả đã làm cho câu thơ này hoàn toàn vắng bóng yếu tố ngoại cảnh. Nếu như ở câu thơ trên, tâm trạng nhân vật trữ tình được gửi gắm qua bức tranh thiên nhiên thì ở đây, tâm trạng nhân vật trữ tình nổi lên ở bình diện thứ nhất của ngôn từ. Đó là dấu ấn thi pháp mới: các nhà thơ mới thường bộc lộ cái tôi của mình một cách trực tiếp, mãnh liệt. Như vậy thơ của Huy Cận là sự kết hợp hài hòa giữa cỏ điển và hiện đại. Với cách dùng từ “vời” kết hợp cùng hình ảnh “con nước” Huy Cận một lần nữa mở ra cảnh tràng giang bao la trống trải, từ đó gợi lên nỗi buồn, sự cô đơn.
Cách nói phủ định để khẳng định tâm trạng: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” khiến ta nhớ đến câu thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu khi ông dừng chân trước cảnh chiều tà
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sống cho buồn lòng ai)
Khói sóng bên sông là một cái cớ để Thôi Hiệu nhớ về quê hương xa cách. Còn Huy Cận dẫu không có khói song cũng nhớ nhà. Cả hai đều chung nỗi sầu xa xứ, nhớ quê hương da diết. Có thể nói Huy Cận nối tiếp mạch sầu vạn cổ tính nhân văn của thơ Đường. Tuy nhiên, các nhà thơ cổ thường mượn cảnh để nói tình nhưng Huy Cận đã bộc lộ trực tiếp tâm trạng. Nỗi buồn của Huy Cận đã trải ra cùng sông nước mênh mang truyền lên vũ trụ để rồi xoáy sâu vào lòng người đầy ám ảnh. Đây không chỉ là mảnh tình riêng của Huy Cận mà đó còn tiêu biểu cho tâm trạng của các nhà thơ mới. Họ đang tìm về chỗ dựa tình thần cho một tâm hồn bơ . Bài thơ có hai hình ảnh tràng giang sóng đôi, bởi vậy bài thơ khép lại nhưng đã lay động đến tâm hồn người đọc tình yêu quê hương xứ sở. Hai câu thơ với cách sử dụng ngôn ngữ tài hoa tinh tế, cách nói phủ định để khẳng định đã bộc lộ trực tiếp tâm trạng nhân vật trữ tình: một nỗi buồn nhớ quê, sâu xa hơn là tình yêu đất nước. Bằng cách sử dụng từ ngữ tinh tế, giàu giá trị biểu cảm, hình ảnh thơ sáng tạo, cấu tứ độc đáo, có sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và hiện đại , Huy Cận đã phác họa thành công bức tranh thiên nhiên vừa đẹp vừa mang màu sắc cổ kính vừa mang dấu ấn thời đại; đồng thời bộc lộ tâm trạng nhân vật trữ tình với một nỗi niềm bơ vơ, sự cô đơn giữa không gian mênh mông sông nước đã kết đọng thành nỗi nhớ nhà.
Nếu làm một điều tra xã hội học rằng trong các nhà thơ Mới, ai được thế hệ bạn đọc yêu quý nhất, chắc đó là Nguyễn Bính. Xuân Diệu chỉ hợp với người trẻ tuổi, Hàn Mặc Tử khi người có văn hóa thơ còn Nguyễn Bính xúc cảm trong thơ ông gửi vào có thể rung động tất thảy. Sự trân trọng của Nguyễn Bính dành cho những mối tình quê, sự chân thành của cô gái thôn quê được thể hiện mãnh liệt qua những vần thơ đầy phong vị ca dao – Mưa Xuân. Cảm xúc mê đắm của Nguyễn Bính trước hết được bộc lộ qua cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân làng quê miền Bắc, qua lớp ngôn từ nghệ thuật giản dị, mộc mạc
Những câu thơ đầu tiên tả cảnh xuân thanh bình, giảu sức sống như lòng người con gái, thông qua hệ thống từ ngữ hình ảnh giản dị, quen thuộc, lời văn chân chất thấm đẫm hồn quê
“ Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ
Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay.”
Đầu tiên, cái tình của của Nguyễn Bính dành cho cảnh quê được thể hiện qua việc ông lựa chọn không gian và thời gian nghệ thuật : mùa xuân (mưa xuân) và ngày hội (hội chèo làng Đặng). Cảnh sắc, đất trời tươi đẹp, không khí sinh hoạt lễ hội khoáng đạt đã tạo điều kiện là nguồn cảm hứng dạt dào cho hồn thơ chân quê Nguyễn Bính bùng nổi. Hồn thơ ông như bị hút vào không khí chung đó.
Nguyễn Bính sử dụng những hình ảnh quen thuộc của cảnh xuân xứ Bắc” mưa xuân”, hoa xoan của làng quê không hương không sắc. Kết hợp với những cụm từ giàu sức gợi tả như “ phơi phới bay, lớp lớp rụng vơi đầy” Nó đã vừa diễn tả đúng trạng thái của hiện tượng lại mang màu sắc thẩm mĩ riêng biệt. Bình thường là những giọt mưa rơi, nhưng với "Mưa xuân" Nguyễn Bính viết mưa bay là đúng và phơi phới bay" lại rất gợi tả. Nhưng hình ảnh gợi cảm nhất của những chùm hoa xoan là khi tàn rụng, những cánh hoa nhỏ bay lớp lớp phủ trên đường. Anh Thơ đã rất có lí và nghệ thuật khi viết "Bên chòm xoan, hoa tím rụng tơi bời!''. Cùng với hiện tượng đó, Nguyễn Bính rất sáng tạo khi viết "Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy". Tô Hoài đã nhắc đến hai câu thơ trên của Nguyễn Bính với lời khen trân trọng: “ "Tầm vóc, thật tầm vóc mỗi câu thơ Nguyễn Bính!". Sử dụng thành công biện pháp tả cảnh ngụ tình, cảnh hóa vui dại khờ, nhí nhảnh khi cô gái trong bài vội đi hẹn hò với chàng trai, lại buồn sầu ảo não “ ngại bay, nát dưới chân giày”. Đã làm bức tranh thiên nhiên không chỉ đẹp mà còn sống động đậm đà tình quê.
Tiếp tục là giọng văn kể lể, sử dụng những hình ảnh ca dao, khẩu ngữ lời ăn tiếng nói hàng ngày, Nguyễn Bính đã hóa thân vào hình ảnh người con gái để giải hóa nỗi niềm thầm kín của cô về một tình yêu lỡ dở. Cái tôi của Nguyễn Bính trong Mưa xuân là cái tôi hóa thân. Tâm trạng của tác giả cũng chính là tâm tư, cảm xúc của cô gái thôn quê trong những đêm hội chèo, trong những ngày lễ hội làng quê. Nguyễn Bính đã thổ lộ cho người cô gái thôn quê bao nỗi niềm thổn thức, ước muốn bằng lối nói mộc mạc mà thiết tha, tình tứ của ca dao, dân ca, ảnh hưởng đậm đà phong vị ca dao. Cô thôn nữ “lòng trẻ con như cây lụa trắng” trong “Mưa xuân” khấp khởi sang “ đám hát thôn Đoài” để gặp người yêu theo lời hẹn. Sử dụng hình ảnh so sánh giản dị, quen thuộc “ cây lụa trắng” đã làm nổi bật hình ảnh Dịu dàng, ngây thơ và trong trắng. Hình ảnh thơ gợi nhớ đến câu ca
"Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai".
Ở đây hình ảnh cây lụa trắng gợi lên một cái trinh trắng của cô gái ít giao lưu tiếp xúc. Có lẽ còn lâu lắm cô gái mới nghĩ đến chuyện gia đình. Nguyễn Bính đã đưa khung cảnh thiên nhiên của một đêm xuân để gợi mở cho câu chuyện tình lỡ dở , lựa chọn một không gian, cảnh sắc thanh bình để làm dụng ý nghệ thuật luôn cùng đi cùng bước với người con gái trong mọi cung bậc của tình yêu. Để diễn tả trạng thái người con gái ngượng ngùng khi lần đầu yêu thương tác giả sử dụng hình ảnh gợi không khí cổ xưa, quen thuộc với người dân lao động Việt Nam: giăng tơ, thoi xinh giàu sức gợi tả tâm tư người con gái. Nguyễn Bính ảnh hưởng từ dân gian lối nói định ước, áng chừng. Đó là lối nói thiên về cảm tính rất đặc trưng của người Việt Nam. Trong thơ ông ta thấy những từ “hình như” được xuất hiện với một tần số rất cao:
“Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ tới anh”
Những từ “hình như” có chút gì mơ hồ, không xác định đã diễn tả một cách thật tinh tế những tình cảm e ấp, ngượng ngùng của những tình cảm trong sáng, nhẹ nhàng của những chàng trai, cô gái trong tình yêu. Nguyễn Bính thật tài tình trong việc thể hiện nội tâm cô gái thể hiện qua khả năng sử dụng ngôn ngữ, thành ngữ ca dao điêu luyện của tác giả. Những từ ngữ mà người thôn quê hay sử dụng được Nguyễn Bính đưa vào thơ 1 cách tự nhiên: “ thế nào....chả; chắc hẳn,..”. Những cụm từ với cách diễn đạt mộc mạc cô gái ngửa bàn tay để đoán định thời tiết rồi mơ màng tưởng tượng cuộc gặp gỡ. Thật đáng trọng cái tình yêu tha thiết ở cô gái này khi cô” mải tìm ảnh chả thiết xem” trong đám hát thâu đêm ở thôn Đoài nọ.
Thơ Nguyễn Bính còn đậm màu sắc dân gian khi ông vận dụng một cách sáng tạo những thành ngữ , ca dao: năm tao bảy tuyết anh hò hẹn. “Năm tao bảy tuyết” là biến thể của thành ngữ “năm lần bảy lượt” có nghĩa là chàng trai cô gái đã thề nguyền, hẹn ước một cách chắc chắn không thay đổi. Chính vì thế mà cô gái đã tin tưởng, hi vọng bao nhiêu để rồi lại lỡ làng, lại thất vọng. Nếu Xuân Diệu thuộc dòng thơ Pháp với công thức đo đếm thời gian theo tư duy lý tính để thấy sự chảy trôi rất vội vã thì Nguyễn Bính – chủ soái của dòng thơ Việt – đi theo một lối đi khác, ông cảm nhận thời gian bằng tư duy cảm tính, sự chảy trôi của thời gian phụ thuộc vào tâm trạng thi nhân. Trong thơ Nguyễn Bính những cụm từ chỉ thời gian ước lệ thân thuộc trong thơ dân gian xuất hiện với tần số cao: thuở ấy, thuở trước, năm xưa, năm ấy, ngày xưa, bữa ấy,…
Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giày.
Với cụm từ “bữa ấy”, Nguyễn Bính đã đặt nhân vật trữ tình vào cách cảm nhận thời gian bằng tư duy cảm tính vừa tạo sự mơ hồ, không rõ ràng trong thời gian đồng thời hư vô trong tâm trạng nhân vật. Bằng sự cảm nhận ngôn ngữ tinh tế của Nguyễn Bính, nếu “thôi đê” có ý nhấn mạnh quãng đường không xa xôi gì thì từ “dãi đê” lại càng gợi nên một quãng đường thật ngắn. Thế mà trong tâm trạng thất vọng và sự lẻ loi cô gái âm thầm đi về thì con đường ấy thành quá xa. Bên cạnh thành công sử dụng ngôn từ để diễn tả tâm tư nhớ nhung, buồn rầu người con gái là sự vận dụng tài tình lối nhân hóa, ẩn dụ – những biện pháp nghệ thuật quen thuộc trong ca dao: thoi ngà nằm nhớ, mùa xuân cũng nhỡ nhàng, dường cửu lạnh,... Người xưa vẫn trao gửi biết bao những tình cảm bằng cách gán cho sự vật môt linh hồn, tâm trạng như con người” Khăn thương nhớ ai...”. Khi đọc thơ Nguyễn Bính ta cũng thấy nhà thơ sử dụng rất nhiều lần biện pháp nghệ thuật này. Thiên nhiên trên trang thơ ông không chỉ là hình ảnh của làng quê bình dị, thơ mộng mà còn là bức tranh tâm trạng của chính nhà thơ:
Hôm nay lá thấy tôi buồn
Luồn theo cánh gió lá luồn theo song
(Lá mùa thu)
Nguyễn Bính là nhà thơ của “các xứ đồng, của cái diều bay, của dây thiên lí, của mưa thưa, mưa bụi”. Ông tìm đến thơ để giãy bày cái tôi chân quê, giàu tình quê, cảnh quê của chính mình. Và đọc thơ ông người ta ngỡ như “thơ ông là viện bảo tàng của tâm hồn người Việt Nam xưa”. Thi nhân cũng tìm thấy sự đồng điệu, nghe thấy phía sau hững lỡ làng của họ dường như chính là sự lỡ làng của chính mình
Và Xuân Diệu, người được mang sức sống chưa từng có ở chốn nước non này, nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, ở Xa Cách Xuân Diệu đã thể hiện khát vọng say đắm nóng bỏng trong tình yêu Xuân Diệu với biệt tài sử dụng từ ngữ , hình ảnh so sánh các biện pháp và phương tiện tu từ đa dạng, phong phú và cách nói cách diễn đạt mới lạ, thơ điệu nói thay cho điệu ngâm, ảnh hưởng thơ tượng trưng, thuyết tương giao... chủ trương cảm nhân tình yêu bằng cảm xúc ân ái xác thịt. Qua Xa Cách đã gửi gắm vào nó quan niệm “tận hiến” trong tình yêu được thể hiện trong thơ Xuân Diệu rất rõ ràng, không chung chung, trừu tượng. Đó là sự tận hiến cả về tinh thần và thể xác. Khát vọng hướng tới hòa hợp về tinh thần của những trái tim yêu được thể hiện qua rất nhiều bài thơ “để đời” của Xuân Diệu, đặc biệt là bài Xa cách
Xuân Diệu chuyển từ điệu ngâm của trung đại sang điệu nói, ngôn ngữ từ ấy mà trở nên phong phú và tinh tế. Nó đã bộc lộ thành công nỗi giận hờn vu vơ của chàng trai vì khoảng cách anh ta và cô gái kia quá xa ở nhưng dòng thơ đầu tiên. Trong “ xa cách” xuất hiện những đại từ nhân: anh, em. Nhân vật trữ tình bộc bạch tâm tư của mình một cách trực tiếp không ẩn mình sau những Mai, những Trúc, những Tùng. Ông hoàng thơ tình sử dụng số từ một cách mới mẻ, ảnh hưởng từ thơ tượng trưng Pháp” một chút, thêm chút nữa” đã diễn tả ngọt ngào nỗi mong mỏi được gần kề của chàng trai khi yêu. Đã gần lại càng muốn gần thêm nữa.
Yêu là khát khao mong muốn phát hiện vẻ đẹp trong sáng tiềm ẩn trong tâm hồn người mình yêu. Dường như những trái tim đang yêu không bao giờ thỏa mãn khát vọng kiếm tìm những “hạt ngọc” ẩn giấu trong tâm hồn người yêu và luôn muốn đi đến tận cùng sự khám phá, thấu hiểu những điều bí ẩn trong tâm hồn người yêu. Xuân Diệu cũng cho chúng ta thấy một khát vọng về yêu, quan niệm thẩm mĩ về con người như vậy qua lớp ngôn từ giàu xúc cảm:
“Đôi mắt của người yêu, ôi vực thẳm!
Ôi trời xa, vừng trán của người yêu!
Ta thấy gì đâu sau sắc yêu kiều
Mà ta riết giữa đôi tay thất vọng.
Dầu tin tưởng: chung một đời, một mộng.
Em là em, anh vẫn cứ là anh.
Có thể nào qua Vạn Lí Trường Thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.”
Cái nhìn của chàng trai giành cho cô gái của mình thật tinh tế qua những hình ảnh so sánh kết hợp với những từ cảm thán: đôi mắt..., ôi vực thẳm; ôi trởi xa... vừng trán người yêu.” Vẫn là lối ví von nhưng qua lối diễn đạt mới mẻ , Xuân Diệu như thổi hồn vào đôi mắt, vầng trán của người con gái một chiều sâu thi vị và độc đáo. Sự hòa hợp với thân xác người yêu cũng là một trong những yếu tố quan trọng để duy trì tình yêu, duy trì sinh lực sống nên trong thơ tình Xuân Diệu người đọc thấy tràn ngập hình ảnh tôn vinh vẻ đẹp hình thể của con người: vầng trán, đôi mắt như trong Xa cách, tóc liễu buông xanh (Nụ cười xuân), miệng vàng, nhan sắc (Mời yêu), đường vai, nét tay (Dấu nằm). đối với thi sĩ vẻ đẹp hình thể của người yêu là “ngọc ngà tinh anh” do đất trời ban tặng
Sử dụng hình ảnh mới mẻ, tân kì “Vạn lí Trường Thành”. Nó là vật vô tri nhưng qua lăng kính tài hoa của Xuân Diệu nó trở thành vách ngắn khắc nghiệt của tình yêu. Kết tinh ở cuối bài là những đặc sắc nghệ thuật trong cách sử dụng từ ngữ đánh thức giác quan, phong phú và bút pháp tương giao. Do đó triết lý yêu trong thơ tình Xuân Diệu bên cạnh việc luận giải vấn đề yêu là hướng đến sự hòa hợp tâm hồn thì còn khẳng định một chân giá trị đầy tính nhân bản: yêu là khao khát được hòa hợp với thân xác người mình yêu: “Hãy sát đôi đầu ! Hãy kề đôi ngực ! Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài ! Những cánh tay ! hãy cuốn riết đôi vai ! Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt ! Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt.”
Trái tim cũng chính là nơi thể hiện sự tự cảm thấy mình, là nơi suy nghĩ và thể hiện lăng kính nhìn sự vật, hiện tượng, cuộc sống, con người của tác giả. Trong thơ Xuân Diệu, ngoài việc thể hiện trực tiếp hình tượng trái tim bằng chính từ ngữ ấy, tác giả còn thể hiện hình tượng bằng từ “đôi ngực” dựa trên mối quan hệ liên tưởng giữa chỉnh thể và bộ phận để nói về những cung bậc cảm xúc của tình yêu. Từ đó mang lại những nhục cảm rất thực trong thơ. Bằng cách động từ mạnh bạo, mãnh liệt, bằng nhịp điệu dồn dập hối hả, Xuân Diệu đã giục giã sự hòa cảm tuyệt đối về thể xác lẫn tinh thần lên tới tuyệt đối: kề sát, kề, trộn, quấn, riết,...
Và chính sự hòa quyện cả hình thức lẫn tâm hồn, ảm xúc nên nhà văn mới có thể sáng tạo lên được những bài thơ có giá trị sâu sắc. Bởi là một người nghệ sĩ mà khi sáng tác văn chương không dựa vào tác phẩm của mình. Trạng thái tâm lý - thẩm mĩ phong phú và phức tạp để từ đó người cầm bút có thể thỏa sức nhào nặn, sáng tạo, chuyển đổi tất cả những rung động, nhận thức của con người về đời sống trở thành ngôn từ. Bởi sự thành công của một tác phảm thơ là chỉ cần đọc một dòng thôi mà nhà văn có thể hiểu được cả thế giới. Nhưng muốn làm được điều đó nhà thơ phải trải qua một lộ trình hết sức gian nan, vất vả, phải lao động một cách thầm lặng cùng với niềm đam mê vô bờ thì mới có thể sở dụng được mộ chữ để đời trong văn chương. Nhưng không phải ngẫu nhiên người nghệ sĩ có thể làm được như vậy mà đằng sau một tác phẩm thơ luôn đòi hỏi người nghệ sĩ ở cảm xúc chân thành, tha thiết, lựa chọn ngôn từ chính xác, chắt lọc nhất để qua đó thể hiện tư tưởng, cách nhìn củ người nghệ sĩ đối với cuộc đời. Ý kiến của Nguyễn Đình Thi cũng là một hồi chuông cảnh tỉnh với người đọc, người nghe để kí đọc một tác phẩm thơ, muốn lĩnh hội được tất cả ý hay, ý đẹp trong câu thơ thì độc giả cũng phải cùng buồn, cùng vui, cùng đồng cảm, sẻ chia với tấm lòng tác giả. Có như vậy, thì ngôn từ trong thơ mới không bị lãng phí, mới giữ đươc trọn vẹn.
Và các tác phẩm trên của bốn nhà thơ Mới đã phản ánh cho ta thấy được tận mắt “chữ” để thể hiện một trạng thái tâm lý đang rung chuyển khác thường” của Nguyễn Đình Thi. Một bài thơ dù hay đến mấy cũng phải bang qua cây cầu ngôn từ để đến với người đọc. Cây cầu có đẹp, có vững chắc bao nhiêu thì sẽ gợi được thiện cảm tốt trong lòng người đọc. Bởi vậy, một tác phẩm có nguyên nội dung, ý nghĩa thôi là chưa đủ mà để làm nên một kiệt tác thì ta luôn phải có sự kết hợp hài hòa, gắn bó cả hai sự hòa quyện đó thì tác phẩm mới luôn muôn sắc, muôn vẻ.
Nguồn: Nhóm tác giả Nguyễn Thanh Xuân, Phan Thị Thu Hiền, Trần Thị Thanh
Trường THPT Chuyên Hùng Vương Phú Thọ
Để lại bình luận