Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi:
(Lược đoạn mở đầu: Lượng cùng tiểu đội lính pháo binh về làng Đằng đóng quân trong những ngày đầu kháng chiến. Họ xin ở nhờ nhà một bà cụ nghèo. Nhà chỉ có hai mẹ con, cô con gái là du kích, tên Thận…)
Chúng tôi đóng quân trong làng, cấu trúc trận địa phòng ngự xong thì giặc tràn tới. Chúng từ các làng mạn trên thị xã tiến xuống. Tiếng súng cối nổ từ sáng sớm. Trên mé đường cái, xe cộ, súng ống, lính Tây, lính ngụy bắt đầu dàn đội hình chuẩn bị tiến vào làng. Trong bữa cơm liên hoan, quân dân ở sân đình, các cụ phụ lão cùng ban chỉ huy bộ đội đã chỉ tay về hướng địch mà thề sống chết có nhau. Đơn vị chúng tôi hôm đó phòng ngự cố thủ. Gần hai trăm đồng bào không chịu tản cư, cương quyết ở lại cùng bộ đội đánh giặc. Đội du kích xã bám sát bên từng hố chiến đấu của chúng tôi. Gần chiều, các làng xung quanh trông thấy lửa bốc lên từ lũy tre làng Đằng. Địch đã chiếm được nửa làng. Tôi bị thương nặng. Địch xung phong vào lối ngõ nhà Thận, nhà tôi ở. Lúc trông thấy những bóng áo trắng của lính Tây lấp ló sau cái ngõ trống, tôi bảo Thận: “Cô quay lại phía sau xem đồng bào còn ai thì dắt xuống hầm, mau!”. Thận không nghe. Cô chỉ có một thanh mã tấu, liền vứt thanh mã tấu xuống, nhặt lấy cây tiểu liên của tôi bắn chết một tên địch rồi cõng tôi lui về phía sau. Đêm ấy, đơn vị chúng tôi phá vòng vây thoát ra ngoài. Trừ một số du kích ở lại bám sát địch, nhân dân lại gồng gánh ra đi theo bộ đội. Một hàng cáng thương binh từ sân đình theo con ngòi sau làng lặng lẽ tiến ra bờ sông Thong. Tôi nằm trên chiếc võng bà mẹ Thận thường hay nằm. Người cáng tôi đêm ấy chẳng phải ai khác lại chính là Thận. Năm năm rồi, lúc nào tôi cũng như trông thấy một mép khăn mỏ quạ bay lất phất trên cái cổ cao rám nắng, và thanh mã tấu in hằn xuống một bên vai áo nâu cứ đánh lách cách bên thanh đòn khiêng.
[…] Đêm ấy trời chưa lạnh lắm. Không có sóng nhưng tôi vẫn nghe tiếng róc rách dưới lưng. Bầu trời đỏ lửa, nhưng vẫn đầy sao. Mỗi vì sao như những con mắt nhấp nháy nhìn chúng tôi. Thận đỡ tôi nằm trên tấm ván lát mạn đò. Giữa trời sao khuya, một đôi mắt đen và to khẽ chớp. Tim tôi đập rộn lên trong cái chớp mắt ấy. Thận cẩn thận gài lại mép chăn cho tôi rồi cúi xuống, sát hơn: “Anh chóng lành để trở về giết thật nhiều giặc nhé - Anh đừng quên em!” Tôi thò tay ra ngoài mép chăn nắm chặt lấy bàn tay ram ráp bụi cát và ấm áp. Thận nhẹ nhàng xô đò ra. Tôi nằm dưới đò, nghe tiếng sóng Thong vỗ nhè nhẹ và nhìn theo cái bóng bé nhỏ của cô du kích đi khuất trong những vạt lúa đang trỗ. Tôi phỏng đoán sáng ngày mai địch lại tiếp tục càn lớn.
(Lược một đoạn: Nhân vật tôi kể lại lần về làng Đằng tìm gia đình Thận. Nhà Thận bị giặc đốt, chưa kịp dựng lại. Hai mẹ con đi nơi khác. Nhân vật tôi viết lại mấy chữ rồi gài vào gốc cây mai với hi vọng một ngày Thận sẽ về và nhận được tin mình. Cuối cùng nhân vật tôi cũng tìm được Thận sau năm năm)
[….]Chúng tôi gặp nhau quá đột ngột. Cổ tôi như bị nghẹn. Dưới ánh sao lờ mờ, tôi khao khát ngắm khuôn mặt Thận và để cho tình yêu giấu kín bấy lâu tự nó trào lên trong lòng mình. Chúng tôi đều mừng và xúc động không nói nên lời … Thận châm một ngọn đèn nhỏ. Bên ánh đèn, tôi thấy khuôn ngực Thận phập phồng. Tôi biết Thận đang xúc động. Tôi thương Thận quá! Mới mấy năm mà trông Thận gầy và già đi nhiều. Đôi mắt ngày xưa trong sáng bây giờ đã thâm quầng, hằn lên những nét lo nghĩ. Gương mặt trái xoan hiền hậu cũng trở nên rắn rỏi và cương nghị.
Tôi không biết hỏi chuyện gì trước với Thận. Thời gian chúng tôi xa nhau có bao nhiêu chuyện xảy ra.
- Bây giờ nhà ta ở đâu, em? – Tôi buột miệng hỏi.
- Em ở nhiều nơi, thỉnh thoảng mới tạt về nhà.
- Vậy mẹ ở đâu?
- Mẹ mất rồi!
- Sao?
- Chúng nó giết mẹ rồi, anh ạ!
Tôi ôm khẩu súng vào lòng, đầu óc choáng váng. Tôi hỏi thêm:
- Bây giờ em làm gì?
Thận ngồi sát tôi hơn:
- Em hoạt động cho đoàn thể.
- Em được kết nạp vào Đảng rồi ư?
- Vâng.
Tôi đặt bàn tay lên bên vai gầy gò của Thận - một người đồng chí - và nhìn ra ngoài. Bên ngoài bóng đêm vẫn dày đặc…
(Trích Nhành mai, Nguyễn Minh Châu, Tuyển tập truyện ngắn, NXB Văn học, 2006).
Câu 1: Xác định các phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2: Theo đoạn trích, tại sao nhân vật tôi lại có cảm giác “cổ tôi như bị nghẹn” khi gặp lại Thận sau năm năm xa cách.
Câu 3: Trong đoạn trích, tác giả sử dụng điểm nhìn của nhân vật nào? Việc lựa chọn điểm nhìn này có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung tác phẩm?
Câu 4. Qua đoạn trích, em cảm nhận gì về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Thận.
Câu 5. Kể tên một tác phẩm có điểm tương đồng với nhân vật Thận trong đoạn trích. Từ đó nhận xét về vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng chiến đấu chống ngoại xâm.
GỢI Ý ĐÁP ÁN:
Câu 1: Xác định các phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích.
+ Tự sự kết hợp với miêu tả, biểu cảm
Câu 2: Theo đoạn trích, tại sao nhân vật tôi lại có cảm giác “cổ tôi như bị nghẹn” khi gặp lại Thận sau năm năm xa cách.
- Vì cuộc gặp quá bất ngờ
+ Trông Thận gầy và già đi nhiều. Đôi mắt ngày xưa trong sáng bây giờ đã thâm quầng, hằn lên những nét lo nghĩ. Gương mặt trái xoan hiền hậu cũng trở nên rắn rỏi và cương nghị.
Câu 3: Trong đoạn trích, tác giả sử dụng điểm nhìn của nhân vật nào? Việc lựa chọn điểm nhìn này có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung tác phẩm?
- Đoạn trích được kể theo điểm nhìn của nhân vật "tôi" – một chiến sĩ pháo binh, cũng là người chứng kiến và trải nghiệm các sự kiện trong câu chuyện.
- Tác dụng:
+ Giúp câu chuyện trở nên chân thực, giàu cảm xúc, vì được kể dưới góc nhìn của người trong cuộc.
+ Giúp thể hiện thế giới nội tâm của nhân vật.
Câu 4: Qua đoạn trích, em cảm nhận gì về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Thận.
- Thận là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến: kiên cường, gan dạ, thủy chung và giàu lòng yêu nước.
Câu 5: Kể tên một tác phẩm có điểm tương đồng với nhân vật Thận trong đoạn trích. Từ đó nhận xét về vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng chiến đấu chống ngoại xâm.
- Tác phẩm có điểm tương đồng:
+ Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê
+ Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi
+ Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi
- Vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng chiến đấu chống ngoại xâm.
+ Yêu nước, kiên cường, dũng cảm, đoàn kết, tình nghĩa, thủy chung.