Banner cho bài viết: ĐỀ KIỂM TRA TẬP TRUNG  LỚP 10 MÔN NGỮ VĂN - CHƯƠNG TRÌNH MỚI

ĐỀ KIỂM TRA TẬP TRUNG  LỚP 10 MÔN NGỮ VĂN - CHƯƠNG TRÌNH MỚI

ĐỀ KIỂM TRA TẬP TRUNG  LỚP 10 MÔN NGỮ VĂN - CHƯƠNG TRÌNH MỚI

PHẦN 1: ĐỌC (5,0 điểm)

Đọc văn bản sau:

Mấy tháng sau ngày giải phóng, độ cuối năm, Tám Khoa vẫn còn ở trong doanh trại quân đội. Một hôm có đứa con trai chừng mười lăm tuổi tìm đến hỏi đúng tên họ ông, nói:

“Ba là ba của con”.

Tám Khoa chưng hửng, nhưng chưa vội nói gì cả, ngắm nghía đứa nhỏ. Nó trông dễ thương quá, mắt sáng long lanh cao lớn khỏe mạnh, bận bộ đồ bà ba đen lm bụi, chiếc túi xách nhỏ choàng chéo qua vai, hẳn đi từ xa tới. Nó nhìn ông cười mãi trong niềm vui khôn tả. Ông nghĩ bụng: “Khoan đã, để coi sao đã, chắc có sự nhầm lẫn gì đây. Tạm thời cứ như vậy đã”. Thế là ông không nhận cũng không từ chối, nói vòng quanh lập lờ để dò la tìm hiểu:

“Con đi xa lắm phải không? Đói bụng không? Nghỉ đi, rồi kể mọi chuyện cho ba nghe”.

“Con tên Thanh”, đứa nhỏ kể. “Má chết rồi, chắc ba không hay đâu hả?”.

“Con cực lắm! Má chết rồi bà chủ rẫy thương tình vẫn cho con ở, nhưng bắt con phải tưới rẫy. Con mới tám tuổi xách nước ì ạch lật đổ hoài, bị bà chủ la mắng. Con tủi thân. Một hôm, con trốn dưới chiếc ghe chở mía, ghe chở tuốt con về Cái Bát đổ lên một lò đường. Con thành người làm công cho lò đường từ đó, vác mía ép mía tới giờ có thể đứng máy được rồi. Con ở đây chơi với ba một thời gian rồi trở về lò đường cũng được”.

“Cứ ở đây đi”, Tám Khoa buột miệng nói.

“Con biết ba thương con. Con cực lắm sao ba không thương được. Ba coi tay con bị lá mía cắt nè, hai vai con chai cứng như có miếng da trâu ở đó. Nhưng con biết sau này ba còn sống con sẽ tìm gặp ba, hai cha con mình sống sung sướng với nhau. Má dặn rất kỹ, kể nhiều chuyện về ba, con hình dung ba giống y như vầy. Hôm giải phóng con đi tìm ba ngay, hỏi thăm nhiều người, có ông cán bộ già chỉ đường con đến đây. Con ở chung với ba được không? Con nấu cơm giặt giũ, lo mọi chuyện nhà cửa cho ba đi làm”.

“Con còn phải đi học. Con học tới đâu rồi?”.

“Con có học hành gì đâu. Hồi má còn sống, má dạy con chút đỉnh, má chết rồi con chỉ có tưới rẫy, vác mía thôi.

[...] “Thôi được rồi, con ở lại đây đi”, Tám Khoa nói, làm dấu chấm cuối cùng cho một quyết định mơ hồ, vô lý nhưng không thể nào cưỡng lại được.

 Bởi đứa nhỏ đâu phải con ông. Ông đúng tên họ đó, ở đơn vị đó, nhưng hồi đơn vị hành quân về Cà Mau ông đâu có đi. Cả đời ông cũng chưa từng về vùng đó. Ông có vợ con nhưng chết cả rồi, tự tay ông chôn cất, trong chiến tranh ở rừng miền Đông.

Nhưng đó là chuyện đã qua. Giờ đứa nhỏ đang ngồi trước mặt ông, dễ thương quá chừng, nôn nóng muốn gặp cha nó nên vội vã nhận lầm ông. Cũng đâu có sao! Điều quan trọng là nó chẳng còn chỗ nào đi nữa, tám tuổi đã tưới rẫy, giờ lang thang đi tìm cha trong thành phố rộng mênh mông sau ngày giải phóng rối mù như thế này. Hãy để nó ở lại đây ít ngày, ông tạm nhận là cha nó, để nó có chỗ ở. Rồi sau đó ông sẽ chỉ đường cho nó đi tìm cha, hoặc đích thân ông sẽ dẫn nó đi. Nó tìm gặp được cha rồi ông sẽ vỗ vai người đồng đội nói: “Tôi trả con cho anh đây. Tôi đã làm cha nó một thời gian, cũng thấy ấm lòng, đcô đơn một thời gian”.

Quả thật ông đã ấm lòng, không phải về sau này mà ngay lúc đó. Đứa nhỏ đang ngồi trong phòng ông cao lớn khỏe mạnh, mắt sáng long lanh, tóc chải r, lưng ưn thẳng chiếc túi xách để trong lòng. Một đứa con bỗng dưng hiện ra như thế này! Đứa con của ông không chết cũng bằng c này, hãy để đứa nhỏ này thay vào chỗ đó. Chỉ ít ngày thôi, hoặc lâu hơn cũng được.

Vậy là đứa nhỏ với ông, kêu ông bằng ba, bởi ông giả làm như thế. Và nhiều khi ông cũng tưởng lầm như thế. Ngày tháng trôi qua, không thấy ông nói ra sự thật với đứa nhỏ, dẫn nó đi tìm cha nó. Vội làm gì, trước sau rồi nó cũng gặp cha nó thôi. Để ít ngày nữa. Giờ ông đang bận lắm, ông biện bạch như thế, thành phố mới giải phóng đang trong thời kỳ quân quản. Ông đi làm việc suốt ngày, về nhà nhìn thấy đứa con hết mệt ngay. Nó lớn lên trông thấy, chẳng mấy chốc đã cao bằng ông. Phải cho nó ngủ giường riêng, ông đặt hai chiếc giường sát cạnh nhau, đêm nằm thò tay qua nắm tay nó, giở mùng lên nhìn mặt nó. Trước đây ông ăn cơm chung với anh em ở nhà bếp, giờ ông lãnh cơm về nhà hai cha con ăn với nhau. Buổi trưa, buổi chiều hai cha con đi lãnh cơm, ông rề rà ở nhà bếp khoe với mọi người đứa con mình thế này thế nọ…

Ông quên hẳn chuyện đưa đứa nhỏ đi tìm cha nó chăng? Không, ông không quên. Ban đêm ông vẫn nằm thao thức tính đến chuyện đường đi nước bước, phải tìm đến chỗ nào gặp đơn vị nào. Nhưng ban ngày ông chỉ tính chuyện hiện tại. Phải lo cho nó đi học, tìm nhà riêng cho nó, chọn cho nó một nghề sống về sau này… Chắc cha thật nó cũng muốn như vậy. Nó lớn tồng ngồng chỉ biết đọc biết viết, không thể cho nó học trường phổ thông, nó đi học bổ túc ông phải xa nó. Cuối cùng ông quyết định cho nó học trường nghề. Ông tự mình đi nộp đơn, như chính ông đi học vậy, chọn nghề in cho gần với chữ nghĩa. Hôm nó nhập học ông cùng đi với nó, vào ngồi cùng bàn, hết giờ cùng ra về.

(Lược phần sau: Khi đứa  con học xong, có nghề nghiệp ổn định và chuẩn bị cưới vợ, ông Tám Khoa quyết định đi tìm lại cha ruột cho nó. Gặp cha ruột của con, ông biết chính người con nuôi đã biết sự thật. Anh đã thực sự coi ông như một người cha, tự nguyện nhận trách nhiệm phụng dưỡng ông tuổi xế chiều. Hai người cha vui mừng cùng chuẩn bị làm đám cưới cho người con.)

(Trích Hai người cha, Truyện ngắn Lê Văn Thảo, NXB Văn học, 2012, tr73 - 77)

 Nhà văn Lê Văn Thảo tên thật là Dương Ngọc Huy, sinh ngày 1/10/1939 tại tỉnh Long An. Năm 1965, ông bắt đầu viết văn với đề tài nông thôn, chiến tranh du kích. Năm 1968, ông tham gia chiến dịch Mậu Thân ở Sài Gòn. Sau năm 1975, ông về công tác tại Hội nhà văn TP. Hồ Chí Minh. Năm 2012, ông đạt giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật.

 

Trả lời các câu hỏi:

Câu 1. (1,0 điểm) Tóm tắt câu chuyện được kể trong văn bản trên.

Câu 2. (1,0 điểm) Vì sao Tám Khoa quyết định tạm thời nhận đứa trẻ làm con dù biết đó không phải con ruột của mình?

Câu 3. (1,0 điểm) Nhận xét về cách lựa chọn ngôi kể trong văn bản.

Câu 4. (1,0 điểm) Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong đoạn văn sau:Phải lo cho nó đi học, tìm nhà riêng cho nó, chọn cho nó một nghề sống về sau này… Chắc cha thật nó cũng muốn như vậy.

Câu 5. (1,0 điểm) Em hãy rút ra hai bài học cho bản thân sau khi đọc văn bản trên.  

 

PHẦN 2: VIẾT (5,0 điểm)

Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật trong văn bản  Hai người cha của Lê Văn Thảo.

---HẾT---

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thí sinh không sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.

Họ và tên thí sinh:  ............................................................................. Số báo danh: ...............................................

Chữ ký của cán bộ coi thi: .........................................................................................................................................

HƯỚNG DẪN CHẤM

ĐỀ KIỂM TRA TẬP TRUNG CUỐI HKII

NĂM HỌC 2024-2025

Môn: Ngữ văn - Khối 10

 

Câu

Nội dung

Điểm

PHẦN 1: ĐỌC (5,0 ĐIỂM)

1

- Tóm tắt:

+ Sau ngày giải phóng, Tám Khoa đang ở trong doanh trại quân đội thì một đứa con trai khoảng mười lăm tuổi tìm đến và gọi ông là cha.

+ Cậu bé tên Thanh, kể về cuộc đời cơ cực của mình sau khi mẹ chết.

+ Tám Khoa, mặc dù biết đứa trẻ không phải con ruột của mình, vẫn quyết định tạm thời nhận cậu làm con.

+ Tám Khoa chăm sóc cậu bé, lo cho cậu đi học và tìm nghề nghiệp.

+ Sau khi cậu trưởng thành, Tám Khoa quyết định đi tìm cha ruột cho con.

+ Người con nhận trách nhiệm chăm sóc, phụng dưỡng cả hai người cha.

1,0

2

- Tám Khoa quyết định tạm thời nhận đứa trẻ là con vì:

+ Ông đồng cảm, xót thương cho hoàn cảnh của cậu (Má mất, phải vất vả mưu sinh khi tuổi còn nhỏ, không còn nơi nào để đi (0,75)

+ Tám Khoa thấy cậu bé giống đứa con đã mất của ông. (0,25)

1,0

3

- Ngôi kể thứ ba (0,25)

- Giúp câu chuyện được kể một cách khách quan, toàn diện, bộc lộ rõ nét cảm xúc của hai nhân vật (0,5), giúp người đọc dễ dàng bao quát được nội dung câu chuyện.(0,25)

 

1,0

4

- Biện pháp tu từ liệt kê: lo cho nó đi học, tìm nhà riêng cho nó, chọn cho nó một nghề sống về sau này.

Tác dụng: Diễn tả đầy đủ/ làm rõ những lo lắng, quan tâm của Tám Khoa về tương lai của cậu con trai. Tạo ấn tượng về hình ảnh và cảm xúc cho người đọc.

Lưu  ý: gọi tên (0,25), chỉ ra (0,25), tác dụng nội dung (0,25), tác dụng hình thức (0,25)

1,0

5

+ Gia đình không chỉ là nơi cùng chung huyết thống mà là nơi có tình yêu thương.

+ Tình yêu thương, sự đồng cảm có thể kết nối những trái tim xa lạ.

+ Bài học về lòng nhân ái, sự bao dung.

Lưu ý: Mỗi bài học 0,5 điểm, chấp nhận nhiều đáp án khác.

1,0

PHẦN II: VIẾT (5,0 ĐIỂM)

Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật trong văn bản  Hai người cha của Lê Văn Thảo.

5,0

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.

0,25

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

- Đặc sắc về chủ đề và các hình thức nghệ thuật

0,25

c. Triển khai vấn đề nghị luận

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:

 

Mở bài

+ Giới thiệu tên thể loại, tác phẩm, tác giả.

+ Nêu nội dung khái quát cần phân tích, đánh giá

0,5

Thân bài

Luận điểm 1: Phân tích, đánh giá chủ đề

- Xác định chủ đề: Ngợi ca tình cảm cha con vượt qua sự ràng buộc của huyết thống.

- Phân tích, đánh giá chủ đề:

+ Chủ đề được thể hiện qua mối quan hệ giữa Tám Khoa và cậu bé Thanh. Từ những con người xa lạ, mang trong mình những nỗi đau, mất mát họ đã trở thành một gia đình tràn ngập tình yêu thương.

+ Chủ đề mang lại một ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đề cao tình người, lòng nhân ái, khẳng định tình cảm gia đình không chỉ dựa trên huyết thống mà còn từ tình yêu thương, trách nhiệm.

Lưu ý: Học sinh có thể chọn những chủ đề khác, miễn hợp lí.

Luận điểm 2: Phân tích, đánh giá một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật.

- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo: Tình huống nhận nhầm cha đầy bất ngờ.

+ Một đứa trẻ xa lạ (Thanh) tìm đến đơn vị quân đội, gọi nhân vật chính (Tám Khoa) là cha. Động lòng trước hoàn cảnh đáng thương của đứa trẻ, Tám Khoa đã âm thầm nhận cậu bé là con và chăm sóc như con ruột của mình.

+ Tình huống truyện góp phần thể hiện rõ chủ đề, phản ánh lòng nhân ái, tình người trong bối cảnh hậu chiến. Tạo sự bất ngờ, xúc động, khẳng định giá trị của tình thân.

-  Ngôi kể, điểm nhìn:

+ Ngôi thứ ba, giúp kể chuyện khách quan nhưng vẫn thể hiện rõ tâm lý nhân vật

+ Truyện được thuật lại chủ yếu qua góc nhìn của nhân vật Tám Khoa,  khắc họa rõ sự chuyển biến tâm lý nhân vật, nhấn mạnh chủ đề nhân văn về tình phụ tử.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

+ Nhân vật người con (Thanh) chủ yếu được khắc họa thông qua ngoại hình, lời nói, hành động. Là một cậu bé có tuổi thơ bất hạnh, hiểu chuyện.

+ Nhân vật Tám Khoa được khắc họa qua lời nói, hành động và nội tâm. Là nạn nhân của chiến tranh, giàu tình yêu thương.

-  Ngôn ngữ:

+ Qua những dòng đối thoại và độc thoại nội tâm thể hiện được tính cách nhân vật.

+ Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, sử dụng từ địa phương.

+ Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: so sánh, liệt kê, điệp ngữ...

Lưu ý: Học sinh có thể chọn những nghệ thuật khác.

1,0

 

 

 

 

2,0

Kết bài

Kết bài:

- Khẳng lại một cách khái quát những đặc sắc về chủ đề và nghệ thuật của văn bản.

- Nêu tác động đối với bản thân hoặc cảm nghĩ sau khi đọc, thưởng thức tác phẩm.

0,5

d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt

0,25

e. Sáng tạo

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ.

0,25

--- HẾT ---

 

Nhận xét từ người dùng

Chatbot Icon
Trợ Lý Văn Học ×
SALE - 70% Shopee