Đọc văn bản sau và thực hiện những yêu cầu:
Bắc Giang - miền quê thuộc vùng Kinh Bắc xưa đã hình thành và lưu giữ được những nét văn hoá đặc trưng. Từ làn điệu dân ca quan họ mượt mà làm say đắm lòng người, đến hình ảnh những mái đình, mái chùa cổ kính, rêu phong “Sông Cầu nước chảy lơ thơ, dòng Sông Thương nước chảy đôi dòng”, tất cả như được bừng lên, kết tinh lại trong không khí của những lễ hội mùa xuân. Một trong những nét đẹp ngày xuân trên quê hương Bắc Giang là những hội vật dân tộc.
Từ ngàn đời nay, Vật dân tộc đã trở thành môn gắn bó sâu sắc với người dân Bắc Giang và trở thành trung tâm chú ý của đông đảo khách thập phương khi đến thăm Bắc Giang. Vì thế, nhiều sới vật, hội vật tại nhiều địa phương của Bắc Giang đã trở nên nổi tiếng và trở thành điểm hẹn của hàng ngàn người hâm mộ trong và ngoài tỉnh như: Xuân Cẩm, Đông Lỗ, Mai Đình (Hiệp Hoà); Hợp Đức, Cao Xá, Lam Cốt (Tân Yên)… Ở những nơi đó, đều có những sới vật chuẩn, hàm chứa tính truyền thống. Đó là sới vật hình tròn được đặt trước sân đình hình vuông, đây không phải là sự sắp đặt ngẫu nhiên mà còn có ý nghĩa sâu sắc. Vuông và tròn theo quan niệm của dân tộc ta là 2 hình toàn vẹn và là biểu tượng cho trời đất (trời tròn, đất vuông). Mặt khác, tròn là mặt trời, các đô vật thường là nam biểu hiện cho tính dương. Thông qua đấu vật người ta mong cho dương vượng để có “mưa thuận, gió hoà, mùa màng tươi tốt bội thu”. Đồng thời, đấu vật còn là hình thức tôn vinh tinh thần thượng võ ngàn đời của dân tộc. Hoà mình vào những hội vật mùa xuân trên quê hương Bắc Giang mới có thể cảm nhận được cái hay, cái đẹp của vật dân tộc thông qua những thủ tục vô cùng độc đáo, không giống bất cứ môn thể thao nào trên thế gian này.
Để chuẩn bị cho hội vật, khâu quan trọng đầu tiên là lựa chọn 2 đô thực hiện keo vật thờ. Để được chọn Đô vật cho keo vật thờ, Đô vật phải là Đô có tiếng trong vùng, được đông đảo công chúng ghi nhận về tài năng đấu vật. Ngoài ra, Đô vật đó phải có đức độ, có bề dầy thời gian cống hiến công lao cho phong trào vật trong vùng.
Mở đầu hội vật, hai Đô thực hiện keo vật thờ được giới thiệu rất trang trọng về tên tuổi, địa chỉ, thành tích đã đạt được, những sở trường trong thi đấu… Khi tiếng trống chầu vang lên, hai Đô vật “mình trần đóng khố,” chân quỳ vai sánh, hai tay chắp sườn. Hiệu lệnh của trống chầu tiếp tục điểm, hai đô đứng vươn thẳng, hai tay vẫn chắp sườn nghênh diện. Tiếng trống chầu điểm lần thứ ba, họ chắp tay đồng thời khom lưng “bái tổ” theo thế 3 bước tiến lên, 3 bước lùi xuống. Tư thế “bái tổ tam cấp” này có ý nghĩa tâm linh sâu sắc, ấy là nghi lễ nhằm thông báo với các bậc thần linh thiêng rằng làng mở hội vật, qua đó, truyền đạt ý nguyện của muôn dân trong vùng: Cầu cho mưa thuận, gió hoà, mùa màng tươi tốt, trái cây bội thu, dân sinh cường tráng…
Sau nghi lễ bái tổ, hai Đô thực hiện nghi thức xe đài. Những động tác xe đài được thể hiện rất đa dạng, đi khắp giải đất trên mọi miền tổ quốc, ở vùng nào có vật là ở đó có phong cách xe đài đặc trưng riêng biệt. Ví như ở miền núi thì xe đài tựa như “Hổ phục vồ mồi”; ở những vùng đồng bằng nơi có những làng nghề truyền thống thì xe đài lại rất uyển chuyển như những người “xe tơ dệt vải”; hoặc như ở những vùng ven biển thì xe đài lại là những động tác như thể chèo thuyền “lúc khoan, lúc mau” hay như làn sóng “lúc hiền, lúc dữ”. Riêng vùng Kinh Bắc xưa và Bắc Giang ngày nay, thì có phong cách xe đài chung, đó là những thế “ đại bàng tung cánh, sư tử vờn cầu”; hay hiền hoà và uốn lượn như “dòng sông Cầu nước chảy lơ thơ”, “ dòng sông Thương nước chảy đôi dòng”…
Nghi thức xe đài được hoàn tất, keo vật thờ chính thức diễn ra, những miếng đánh trong keo vật thờ được thể hiện rất chậm, người xem cảm nhận được như từng nhịp thở: Đâu là miếng bốc, đâu là miếng gồng; hay bất chợt đây là miếng mói, đó là miếng sườn … Tất cả được 2 Đô biểu diễn nhịp nhàng và đẹp mắt. Cái hay của keo vật thờ chính là ở chỗ có thể giới thiệu cho người xem hiểu được phương pháp tấn công và thủ pháp chống đỡ để rồi phản công. Những người dự khán keo vật thờ đều vô cùng cảm kích trước tài năng của cả 2 Đô vật. Để rồi trong tâm thầm bất phân định: Không biết Đô nào đáng thua, Đô nào đáng thắng đây. Thế nhưng, lệ của keo vật thờ thật là khéo léo, khi kết thúc keo vật cả 2 Đô cùng phải thua “lấm lưng trắng bụng”. Sau đó, là những tiếng hò reo tán thưởng vang lừng. Cùng với ý nghĩa tâm linh sâu sắc, keo vật thờ tồn tại trong các hội vật ở Bắc Giang như là một hình mẫu, là chiếc cầu nối cho vẻ đẹp truyền thống ngàn đời. […]
Theo PHÍ TRƯỜNG GIANG (dulichbacgiang.gov.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. (1.0đ) Dựa vào văn bản anh/ chị hãy chỉ ra 1 đoạn có lồng ghép yếu tố miêu tả.
Câu 2. (1.0đ) Xác định tên gọi của đoạn văn sau: “Bắc Giang - miền quê thuộc vùng Kinh Bắc xưa đã hình thành và lưu giữ được những nét văn hoá đặc trưng. Từ làn điệu dân ca quan họ mượt mà làm say đắm lòng người, đến hình ảnh những mái đình, mái chùa cổ kính, rêu phong “Sông Cầu nước chảy lơ thơ, dòng Sông Thương nước chảy đôi dòng”, tất cả như được bừng lên, kết tinh lại trong không khí của những lễ hội mùa xuân. Một trong những nét đẹp ngày xuân trên quê hương Bắc Giang là những hội vật dân tộc.”
Câu 3. (1.0đ) Tìm và sửa lỗi dùng từ trong câu sau: “Sau những chiến công lừng lẫy, khắp nơi đều nghe danh giá Đăm Săn.”
Câu 4. (1.0đ) Xác định nội dung của văn bản.
Câu 5. (1.0đ) Trình bày suy nghĩ của bản thân sau khi đọc văn bản trên.
Câu 6. (1.0đ) Anh/chị có đồng tình với quan điểm “Cùng với ý nghĩa tâm linh sâu sắc, keo vật thờ tồn tại trong các hội vật ở Bắc Giang như là một hình mẫu, là chiếc cầu nối cho vẻ đẹp truyền thống ngàn đời.” không? Vì sao? (trả lời từ 4 đến 6 dòng)
II.PHẦN VIẾT: (4,0 điểm)
Phân tích đánh giá chủ đề và hình thức nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ sau:
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan, | Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời (Mùa xuân chín, Hàn Mặc Tử) |
Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, quê ở huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay thuộc Quảng Bình). Ông là một trong những nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Tuy có cuộc đời nhiều bi thương nhưng Hàn Mặc Tử luôn có tinh thần lạc quan và sức sáng tạo mạnh mẽ.
Để lại bình luận