Văn học không chỉ khơi dậy sự đồng cảm mà còn có khả năng cuốn hút ta vào những cuộc đối thoại: đối thoại giữa các nhân vật, đối thoại với tác giả và đối thoại với chính bản thân mình.
Anh/chị hãy bình luận ý kiến trên qua các tác phẩm trong và ngoài chương trình.
Bài làm
Nhà nghiên cứu nghệ thuật M.Xan tư –cốp –sê - đrin đã từng nói rằng: “Nghệ thuật chân chính nằm ngoài sự tác động của các quy luật băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Nghệ thuật nói chung các tác phẩm văn chương nói riêng bao giờ cũng đủ sức đứng vững giữa dòng thời gian nghiệt ngã và bám rễ sâu chắc nơi mảnh đất tâm hồn con người nếu nó mang lại cho người đọc những giá trị thẩm mỹ, nhân văn cao đẹp và được ươm mầm, nảy nở từ trái tim của người nghệ sĩ để tạo nên những cuộc đối thoại. Nói về điều ấy cũng đã từng có ý kiến cho rằng: “Văn học không chỉ khơi dậy sự đồng cảm mà còn có khả năng cuốn hút ta vào những cuộc đối thoại: đối thoại giữa các nhân vật, đối thoại với tác giả và đối thoại với chính bản thân mình”.
Tác phẩm nghệ thuật ra đời muốn có sức sống và giá trị lâu bền phải “khơi dậy sự đồng cảm” nghĩa là tác động vào tâm hồn người đọc, bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp mang giá trị nhân văn cao cả. Giúp con người biết cảm thông, chia sẻ, thấu hiểu và lay thức ở họ lòng trắc ẩn cao đẹp. Nhưng “văn học không chỉ khơi dậy sự đồng cảm mà còn có khả năng cuốn hút ta vào những cuộc đối thoại: đối thoại giữa các nhân vật , đối thoại với tác giả và đối thoại với chính bản thân mình”. Tác phẩm văn chương ra đời thực chất là tạo ra những cuộc giao tiếp ngầm với bạn đọc ,để người đọc tự tranh luận, chất vấn và tìm ra câu trả lời cho chính mình. Nhận định đã đã đề cập đến hai đặc trưng văn học và hướng đến khả năng đối thoại của tác phẩm nghệ thuật chân chính.
Văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh hiện thực thông qua hình tượng nghệ thuật. Thế giới hình tượng trong tác phẩm được xây dựng sống động, lắng lọc qua cảm xúc thẩm mỹ và chất chứa tâm tư, tình cảm, thái độ của người cầm bút. Văn học có khả năng hướng thiện và “nâng cao tinh thần con người”, là nấc thang nâng đỡ, “gợi lên những tình cảm cao quý và can đảm để người đọc tự hoàn thiện mình. Tác phẩm nghệ thuật chân chính không phải là những thuyết lý khô khan, giáo điều mà là “ tấm thảm ngôn từ kì diệu “ tác động vào tâm hồn ,nhận thức của bạn đọc, khơi dậy ở họ những tình cảm nhân bản ,nhân văn cao đẹp. Bởi “văn học làm con người thêm phong phú, tạo khả năng để con người lớn lên và hiểu con người nhiều hơn Kalinine. Nhưng đến với người đọc, tác phẩm nghệ thuật chân chính “không chỉ khơi dậy sự đồng cảm mà còn cuốn hút ta vào những cuộc đối thoại: đối thoại giữa các nhân vật, đối thoại với nhà văn và đối thoại với chính mình”. Tìm đến văn học cũng là lúc người đọc tìm cho mình sợi dây đồng điệu và khám phá cánh cửa bước vào thế giới tâm hồn nhà văn thông qua những cuộc giao tiếp ngầm. Từ đó tạo nên những tranh luận, chất vấn trong bạn đọc để họ tự nhận thức và đối thoại, như GS. Trần Nho Thìn cũng đã từng nhận định “sáng tác văn học thực chất là một sự hồi đáp”. “Khơi dậy sự đồng cảm “ là cơ sở để văn học “cuốn hút ta vào những cuộc đối thoại”, chỉ khi được thấu hiểu, cảm thông và lay thức lòng trắc ẩn người đọc mới có khả năng nhận thức để đối thoại. Hơn thế khi tạo ra những cuộc giao tiếp ngầm, tác phẩm nghệ thuật cũng giúp ta có thêm những tình cảm đáng quý, sâu sắc và mới mẻ hơn để có thể tự hoàn thiện mình .
Trước hết “văn học có khả năng khơi dậy sự đồng cảm” và lay thức ở người đọc lòng trắc ẩn. Đó là khả năng giúp bạn đọc biết cảm thông và thấu hiểu trước thân phận cùng bi kịch của những kiếp người bị đày đọa. Đến với “Truyện Kiều” người đọc cũng thật xót xa trước cuộc đời của người con gái tài hoa mà bạc mệnh là Thúy Kiều khi phải đối diện với bi kịch tình yêu tan vỡ :
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Nguyễn Du đã nhập vai vào nhân vật để diễn tả sâu sắc bi kịch tình yêu tan vỡ của Thúy Kiều và giúp người đọc càng thấu hiểu, xót xa cho thân phận của người con gái bạc mệnh. Thúy Kiều trao duyên cho em nhưng không muốn trao đi kỉ vật, trao duyên nhưng không thể trao đi tình nghĩa sâu nặng với Kim Trọng và thậm chí duyên dã trao mà tình càng thêm nặng. Ngay cả khi quay trở về đối diện với chính mình, Thúy Kiều cũng chỉ thấy bao trùm tâm hồn mình là nỗi đau đớn ,day dứt là tâm trạng nuối tiếc khôn nguôi:
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao siết muôn vàn ái ân
“Trâm” và “gương” là những kỉ vật gắn liền với tình yêu đôi lứa ,là tượng trưng cho những tình cảm thắm thiết, mặn nồng. Hình ảnh “trâm gãy gương tan” vì thế cũng là biểu trưng cho tình yêu tan vỡ. Dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Du đã diễn tả tận cùng nỗi đau của nhân vật, ghi lại từng khoảnh khắc đớn đau , khắc khoải của Thúy Kiều khi phải đối diện với bi kịch tình yêu bị đứt đoạn, duyên tình bị lỡ dở để khơi dậy ở người đọc tấm lòng cảm thông, thương xót cho số kiếp của những con người tài hoa mà bạc mệnh .
Không chỉ đồng cảm với những kiếp người bị đọa đầy trong xã hội cũ ,tìm đến những vần thơ trong bài “Khâm Thiên’’ của Lưu Quang Vũ người đọc cũng càng thêm xót xa ,đau đớn trước hiện thực thảm khốc, bi thương của phố Khâm Thiên sau trận ném bom kinh hoàng :
“Những người chết trong đêm thân gãy nát
Óc chảy ròng trên gạch
Những người chết cháy đen miệng há mắt mở trừng
Tay chân vặt vẹo thịt xương
Lòng ruột mắc trên dây điện
Phố Khâm Thiên ầm ầm đổ sụp
Tiếng người la khủng khiếp đêm dài “
Tác giả đã tái hiện một cách chân thực hiện thực chiến tranh cùng nỗi đau và sự mất mát của con người sau thảm cảnh bằng bút pháp tả chân, sử dụng những hình ảnh chân thực “thân gãy nát”, “óc chảy ròng trên gạch”, “người chết cháy đen miệng há mắt mở trừng”, “tay chân vặn vẹo thịt xương”, “lòng ruột mắc trên dây điện”. Dưới ngòi bút của mình, Lưu Quang Vũ đã diễn tả một cách rùng rợn đến gai người về cảnh tượng chết chóc của phố Khâm Thiên. Người chết không còn được toàn vẹn, cả không gian chìm trong không khí tang tóc, hoang tàn. Chiến tranh đã gây ra tội ác khủng khiếp, nó làm những đứa trẻ thơ thành mồ côi , trong ánh mắt ngây thơ của các em đã hằn sâu nỗi đau mất người thân. Người lớn trở nên điên dại vì chứng kiến cảnh tượng ghê sợ. Đây như một cơn địa chấn khủng khiếp, không gì có thể bù đắp lại những tổn thương trong tâm lý, sự sống của con người. Bài thơ đã chạm đến trái tim người đọc bởi những ám ảnh hết sức tang thương ,đau đớn về con người khi phải chịu đựng thảm họa do chiến tranh gây ra và còn bởi tác phẩm đã lay thức tâm hồn người đọc niềm đồng cảm, xót thương sâu sắc trước tình cảnh của người dân sau chiến tranh.
Không chỉ khơi dậy sự đồng cảm, xót thương sâu sắc trước thân phận và nỗi đau của con người mà văn học còn giúp người đọc biết nâng niu, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, phẩm giá của con người ngay trong những hoàn cảnh bi kịch nhất. Bằng cái nhìn ưu ái và tấm lòng nhân đạo cao cả của mình, Nguyễn Du cũng đã xây dựng hình tượng nhân vật Thúy Kiều hiện lên với những vẻ đẹp phẩm chất sáng ngời. Trong hoàn cảnh bi thương, Thúy Kiều vẫn hiện lên là một cô gái thông minh, sắc sảo và có nghị lực sống phi thường khi cố gắng nén lại nỗi đau trong lòng để lựa lời thuyết phục Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Trong lời thuyết phục ấy vừa thấu tình vừa đạt lý nhưng cũng ẩn chứa sự biết ơn và cảm phục trước sự hy sinh của Thúy Vân:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Kem loan chắp mối tơ thừa mặc em
Thúy Kiều đã cố gắng lựa lời thuyết phục em thay mình nối mối duyên tơ đứt đoạn , nàng không nói “nhờ em “ mà lại là “ cậy em “như ẩn chứa cả niềm hy vọng , sự ủy thác và gửi gắm thiêng liêng đến Thúy Vân. Nàng cũng từ bỏ tôn ti trật tự và lễ giáo phong kến để “lạy’’ “ thưa’’ em và đặt mình trong vai của người mang ơn , nặng nợ. Lời thuyết phục của Thúy KIều vừa khéo léo nghĩa tình , vừa van nài ướm hỏi đã đặt Thúy Vân vào hoàn cảnh mặc nhiên không thể chối từ, thể hiện những vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của một người con gái mặn mà, sắc sảo . Dù đang phả đối diện với bi kịch tình yêu tan vỡ đầy đau đớn khôn nguôi, nhưng không lúc nào nàng nghĩ cho bản thân mình mà chỉ lo lắng cho hạnh phúc của người mình yêu. Ngay cả khi đối diện với nỗi đau trong thực tại và đối thoại với Kim Trọng trong tâm tưởng, nàng cũng luôn tự thấy mình là kẻ phụ bạc :
Ôi Kim Lang ,hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Đến với tiểu thuyết “Bay trên tổ chim cúc cu” của Kenneth Elton Kesey, người đọc cũng được thấu hiểu những thủ đoạn tàn độc của liên hợp nơi nhà thương binh, sự yếu ớt gần như điên loạn của những phận người bé nhỏ và hơn hết là sức sống đơn lẻ mà mạnh mẽ, kiên cường của McMurphy để càng thêm trân trọng khát vọng tự do và tinh thần phản kháng của con người. Ý nghĩa của tác phẩm nằm ở con người tự do – McMurphy. Ý thức tự do hun đúc từ trong vẻ bề ngoài cứng cỏi, xờm xoàm, từ vết sẹo chạy ngang ở sống mũi đến gò má còn chưa lành lại. Cái chất ngang tàn, phóng túng nằm trong chính cuộc đời của hắn, cái cuộc đời của kẻ lang thang, vô gia cư, nay đây mai đó trên các nông trường rồi làm lính, rồi băng qua không biết bao nhiêu trại cải tạo và nhà tù địa phương. Đôi bàn tay hắn “bàn tay đã từng làm việc trong các gác ga ra, móng tay cáu bẩn... lòng bàn tay phẳng, chắc chắn, cứng cáp như một tấm gỗ, đã rắn lại vì cầm búa, cầm rìu ...’’ là minh chứng sống động cho một cuộc đời tự do không gì cản nổi. Dù vào nhà thương điên, tinh thần tự do vẫ sôi sục trong con người hắn, thôi thúc McMurphy kháng cự lại những nguyên tắc chói buộc mà bà y tá Trưởng đề ra . Bởi Murphy hiểu được rằng, hắn là hắn, một con người có lý tưởng được trở thành thợ chơi poker, không chấp nhận ràng buộc, có cá tính, có sức mạnh và sẵn sàng rửa hận cho mình bất cứ lúc nào mà không bị va vấp bởi hàng mớ đạo luật.
Nhưng “văn học không chỉ khơi dậy sự đồng cảm mà còn có khả năng cuốn hút ta vào những cuộc đối thoại: đối thoại giữa các nhân vật, đối thoại với tác giả và đối thoại với chính bản thân mình”. Đến với “Truyện Kiều” ta không chỉ cảm thông, xót xa trước thân phận của Thúy Kiều mà còn như được trò chuyện, đối thoại với chính nhân vật để thấu hiểu diễn biến tâm trạng sâu sắc của người con gái tài hoa mà bạc mệnh :
“ Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền ghì trúc mai “
Thúy Kiều tưởng tượng ra tương lai hạnh phúc của Thúy Vân và Kim Trọng còn mình thì trở về trong khói hương nghi ngút, trong dìu dặt phím tơ, trong sự lay động của lá cây, ngọn cỏ. Đó là một nỗi đau đớn, dằn vặt, là hoàn cảnh thảm thương, thê thiết hiện ra trong tâm tưởng của nàng. Thúy Kiều tưởng tượng hồn của mình còn hàm oan, không thể siêu thoát và vẫn còn mang nặng lời thề nghĩa tình thủy chung son sắt với chàng Kim, dù xuống cõi âm hư vô, chìm tối nhưng vẫn còn vẹn nguyên một khát khao tình yêu mãnh liệt. Qua mỗi trang thơ trong tác phẩm, người đọc dường như cảm thấy mình được đối thoại, trò chuyện trực tiếp với nhân vật để thấu hiểu và cảm nhận hết những khóc khuất sâu kín trong tâm hồn người con gái bạc bệnh ấy.
Đối thoại và trò chuyện với nhân vật trong tác phẩm, người đọc cũng được thấu hiểu và lắng lòng mình trong dòng cảm xúc miên man của nhân vât trữ tình qua bài thơ “Trăng vàng trăng ngọc”“của Hàn Mặc Tử.
“ Trăng , trăng , trăng , Là trăng , trăng , trăng
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên , ước hẹn hò ...
Bao giờ đậu trạng vinh quy đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ’’
Chìm vào cõi đau đớn và mộng mị, chưa từ biệt cuộc đời bởi căn bệnh quái ác thì Hàn Mặc Tử đã muốn từ bỏ cuộc đời bởi sự cô đơn vò xé. Chỉ có vầng trăng trên cao, chỉ có thứ ánh sáng thanh khiết kia mới vớt vát được sự sống còn lại trong tâm hồn. Vầng trăng với vẻ đẹp dịu dàng, tinh nhẹ của nó được nhìn nhận thật sinh động, hiện lên như một món đồ để dao bán. Hàn Mặc Tử như đang reo to với mọi người , ta ngỡ như nhà thơ đang nhảy nhót vui tươi, như điên cuồng nói “Ai mua trăng tôi bán trăng cho”. Trăng nào của riêng Hàn Mặc Tử ? Nhưng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử lại là một góc rất riêng của thi nhân . Trăng lung linh huyền ảo , trăng dát vàng lên muôn vật , muôn loài và cũng tỏa sáng làm ấp áp hồn người. Với một người mặc cảm, đau đớn trong chính cuộc sống của mình như Hàn Mặc Tử thì trăng như “chiếc phao cứu sinh”, như chiếc thuyền nhỏ lênh đênh mà vớt vát những gì còn lại của sự sống. Đến với “Trăng vàng trăng ngọc” người đọc như được sống cùng tâm trạng, tiếng lòng của thi nhân để cảm thấu hết sự rung động chân thành của người nghệ sĩ tận tâm, tận lòng với cái đẹp, tôn thờ và gìn giữ cái đẹp của trăng đến mức ám ảnh, day dứt mãi khôn nguôi .
Cuốn hút ta vào những cuộc đối thoại và giao tiếp ngầm, văn học còn giúp người đọc được đối thoại với nhà văn để cảm nhận hết những tâm tư, tình cảm sâu kín cùng tài năng và quan niệm của người nghệ sĩ. Đến với “Truyện Kiều” ta cũng thêm thấu hiểu được cái tâm và cái tài của một đại thi hào dân tộc. Đó là ngòi bút miêu tả diễn biếm tâm lý nhân vật sâu sắc, là nghệ thuật đối được sử dụng một cách tài tình , linh hoạt cùng hệ thống những hình ảnh ước lệ, tượng trưng được nhà thơ vận dụng một cách sáng tạo và độc đáo để tạo nên một kiệt tác văn học có giá trị. Nhưng “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” , chính “đôi mắt nhìn xuyên sáu cõi “cùng tấm lòng” nghĩ tới nghìn đời” đã đưa ông trở thành một nhà thơ và một nhà nhân đạo lớn. Dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Du cũng gửi gắm đến người đọc những đánh giá và cách nhìn nhận mới mẻ sâu sắc về thân phận của những người kĩ nữ chốn lầu xanh. Với ông họ chỉ là những nạn nhân bị đọa đày bởi kiếp phong trần “Bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Bằng cái nhìn ưu ái và tấm lòng nhân đạo của mình, nhà thơ cũng quan niệm về chữ trinh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến mang đầy tính nhân văn, nhân bản: “ Chữ trinh kia cũng có năm bảy đường”. Cũng vì vậy mà trải qua mười lăm năm lưu lạc, bị đầy đọa và đẩy vào dòng đời ô nhục nhưng Thúy Kiều “lấy hiếu làm trinh “vẫn được coi là cao đẹp .
Tìm đến những lời thơ trong “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, người đọc cũng như được đối thoại với tác giả để thấu cảm những quan niệm , triết lý sâu sắc của nhà thơ về lối sống nhàn :
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao “
Sự đối lập giữa hai cách sống, hai quan niệm, một bên là nhàn hạ, thảnh thơi về tâm hồn, một bên là lối sống bị cuốn hút bởi danh lợi. Cách nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cách nói ngược pha chút thâm trầm, hóm hỉnh, sâu sắc về lối sống nhàn”, “dại’’ mà “ khôn’’, “khôn mà dại’’. Với ông, nhàn là được sống an nhiên, tự tại với tâm hồn, không bon chen, tranh giành danh lợi để di dưỡng tinh thần, bảo vệ nhân cách.
Tạo nên những cuộc đối thoại và giao tiếp ngầm, tác phẩm văn học cũng giúp người đọc được tự mình đối thoại với bản thân để nhận thức và tự hoàn thiện mình.Tìm đến văn chương nghệ thuật, cũng là lúc người đọc được khám phá thế giới tâm hồn sâu kín của nhà văn , được thanh lọc tâm hồn qua những tâm tư,tình cảm quan niệm và triết lý về nhân sinh được người nghệ sĩ nhắn gửi. Tác phẩm văn học khi cuốn hút ta vào những cuộc đối thoại cũng khiến ta như sống được nhiều cuộc đời hơn qua những cuộc đời của người khác,được khám phá cuộc đời như một tấm thảm ba tư kì diệu, muôn màu sắc với nhiều con người , nhiều cảnh ngộ khác nhau. Để từ đó lay thức ở ta những tình cảm tốt đẹp mang giá trị nhân văn cao cả, khiến ta biết thấu hiểu , cảm thông trước số phận và nỗi đau của những kiếp người bị đày đọa. Văn học tạo khả năng giúp con người tự mình đối thoại, chất vấn, tranh luận để hướng đến những giá trị chân thiện mỹ ở đời. Người đọc vì thế mà khi đến với văn chương nghệ thuật và tham gia vào những cuộc đối thoại, giao tiếp ngầm sẽ nhận thức để góp phần hoàn thiện mình .
Để tạo nên những tác phẩm có giá trị “không chỉ khơi dậy sự đồng cảm mà còn có khả năng cuốn hút ta vào những cuộc thoại “người nghệ sĩ không những cần có một tấm lòng nhiệt huyết , một trái tim yêu thương vô bờ , nhạy cảm với những vấn đề của cuộc sống mà còn phải là những cây bút tài năng ,độc đáo. Có sự kết hợp giữa tâm và tài để sáng tạo nên những tác phẩm vượt thời gian và có sức sống lâu bền tới mọi thế hệ. Ý kiến cũng đã đặt ra những yêu cầu đối với người sáng tác và tiếp nhận. Người nghệ sĩ khi sáng tác văn chương nghệ thuật cần phải sống thật sâu sắc với đời, phải trau dồi cho bả thân cá tính, trải nghiệm để có được những rung động chân thành, mãnh liệt trước mọi vấn đề của cuộc sống. Khi đến với tác phẩm nghệ thuật và thưởng thức đứa con tinh thần của nhà văn , bạn đọc cũng cần bồi dưỡng cho bản thân những tình cảm tốt đẹp để thấu cảm hết những gì mà nghệ sĩ muốn gửi gắm .
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đa từng nói rằng: “văn thơ hay có tác dụng nuôi dưỡng những tình cảm lớn, tình cảm đúng ngược lại ít nhiều cũng phải có những tình cảm lớn , tình cảm đúng để cảm nhận cái hay thật của văn thơ”. Tác phẩm văn học ra đời nhằm thực hiện sứ mệnh gửi gắm bức thông điệp thiêng liêng từ trái tim người nghệ sĩ, có khả năng lay thức ở người đọc những “tình cảm đúng , tình cảm lớn “và khơi dậy ở ta niềm đồng cảm sâu sắc. Nhưng hơn hết để có được sức mạnh “ vượt ra ngoài sự tác động của định luật băng hoại “văn học còn phải tạo nên những cuộc đối thoại và giao tiếp ngầm, từ đó làm nên sức sống lâu bền đến mọi thế hệ người đọc.
(Bài viết của học sinh lớp 11 chuyên Văn)
Nguồn: Nhóm tác giả Nguyễn Thanh Xuân, Phan Thị Thu Hiền, Trần Thị Thanh
Trường THPT Chuyên Hùng Vương Phú Thọ