Bằng trải nghiệm văn học, anh/chị hãy bình luận ý thơ sau:
“Chất trong vị ngọt mùi hương
Lặng thầm thay những con đường ong bay.
Trải qua mưa nắng vơi đầy
Men trời đất đủ làm say đất trời.
Bầy ong giữ hộ cho người
Những mùa hoa đã tàn phai tháng ngày”.
(Trích “Hành trình của bầy ong” – Nguyễn Đức Mậu)
Bài làm
Ai đó đã từng nói rằng, “Viết chính là chết” để nói lên sự khổ công trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Mỗi tác phẩm là một lần nhà văn sống hết mình, dốc hết bầu tâm tư, nguyện vọng của mình trong đó, là một lần đau khổ tột cùng, yêu thương tột cùng, căm hận đến tột đỉnh,...Nhưng từ ấy mà tác phẩm sinh thành, mang trong mình những âm vang đa thanh của cuộc đời, chưa đựng biết bao nhiêu cảm xúc ngân nga của tâm hồn người nghệ sĩ. Quá trình đó đã được Nguyễn Đức Mậu thể hiện thật sinh động tinh tế trong những câu thơ:
“Chất trong vị ngọt mùi hương
Lặng thầm thay những con đường ong bay.
Trải qua mưa nắng vơi đầy
Men trời đất đủ làm say đất trời.
Bầy ong giữ hộ cho người
Những mùa hoa đã tàn phai tháng ngày.”
(Trích Hành trình của bầy ong )
“Hành trình của bầy ong” hay phải chăng cũng chính là hành trình sáng tạo nghệ thuật đầy miệt mài của người nghệ sĩ chân chính. Nếu như loài ong không ngừng chắt “vị ngọt mùi hương” từ cuộc đời để làm nên những giọt mật ngọt ngào, lưu giữ bao mùa hoa trước bước đi của thời gian thì người cầm bút lại chưa từng thôi khám phá, chắt lọc thực tế cuộc sống đưa vào trang sách, sau cùng bất tử hóa hiện thực trước dòng chảy vô thủy vô chung của thời gian, làm nên tác phẩm muôn đời. Tác phẩm đó chính là những “giọt mật” ngọt ngào, là kết tinh của tài năng tâm sức, quá trình lao động nghệ thuật hăng say của người nghệ sĩ, là kết quả đẹp đẽ của cuộc sống đã được lắng lọc, chăm chút.Và từ đó, “bầy ong giữ hộ cho người/ Những mùa hoa đã tàn phai tháng ngày”. Những mùa hoa giữ lại chính là hiện thực cuộc sống được ngưng đọng, là lẽ sống, quan điểm, tư tưởng, thông điệp thẩm mĩ,... mà tác giả muốn truyền tải đến người đọc. . Quá trình sáng tạo giờ đây không chỉ tuân thủ quy luật phản ánh hiện thực đơn thuần mà còn phù hợp với chức năng của văn chương chân chính: nhận thức, giáo dục để hướng con người đến với cái đẹp đích thực. Bằng cách giữ lại những “mùa hoa” đẹp nhất, những hương vị đậm đà nhất của cuộc sống, con người có thể nhìn lại, thấy được một hiện thực đã qua một cách sống động, để rồi tự cảm, tự ngẫm ra bao thông điệp sâu sắc thú vị. Nhờ vậy mà hiện thực trở nên có giá trị lâu dài và bền vững khi được lưu giữ trên trang giấy - trang văn. Vậy, ý kiến đã bàn về mối quan hệ giữa nhà văn và hiện thực cuộc sống , vai trò của nhà văn đối với bạn đọc.
Có thể nói,chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ, văn học thôi gắn bó với cuộc đời đa dạng và phong phú. Những hương vị của cuộc sống đa thanh với những vui buồn, đau đớn, những ước mơ, khát vọng,…đã nuôi dưỡng cho tác phẩm văn chương lớn lên, như nhà thơ Tố Hữu từng nói “Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học.” Hiện thực là nguồn cảm hứng, là chất liệu để nhà văn xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật. Tách khỏi cuộc đời, tác phẩm sẽ trở nên lạc lõng và xa vời với người đọc. Tuy nhiên, hiện thực trong tác phẩm phải là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Nghĩa là, hiện thực được đưa vào trang viết không phải là hiện thực đời thường trần trụi mà đã được chọn lọc kĩ càng, trải qua thời gian trải nghiệm và khám phá “mưa nắng vơi đầy” của nhà văn. Người nghệ sĩ có thể phản ánh những điều tốt đẹp, cao cả hay bé nhỏ tầm thường, những hiện thực bén nhọn của đời sống khách quan hay chủ quan của tâm hồn. Song, hiện thực đó phải là những gì tinh túy nhất, thể hiện sự trăn trở, nâng niu của người viết, đồng thời thấm nhuần tư tưởng về cuộc đời, đặc biệt về con người với đời sống phức tạp, phong phú. Chỉ khi ấy, quá trình khám phá, chọn lọc của nhà thơ, nhà văn mới thực sự có ý nghĩa. Khi hiện thực bước vào tác phẩm, hiện thực ấy không còn là “vị ngọt mùi hương” đơn thuần nữa. Qua bàn tay của nhà văn, nó trở thành “men say” – cái đẹp có khả năng làm nên sức mạnh nội tại, giúp văn chương trải qua bao mưa nắng với đầy mà làm say đất trời, lôi cuốn độc giả, hướng con người đến cái Chân – Thiện – Mĩ. Làm nên điều kì diệu đó phải nhờ đến “ cuộc hành trình” âm thầm, lặng lẽ, không ngừng dấn thân, không ngừng khám phá và miêu tả cuộc sống của nhà văn. Người nghệ sĩ chân chính là người yêu say cuộc đời thiết tha, yêu thương con người hết mực, với trái tim không ngừng rung cảm trước mọi sự việc mà anh ta bắt gặp, cũng như không bao giờ cho phép bản thân thôi ngụp lặn giữa bể đời để tìm cho ra “chất vàng mười” đem gửi vào trang sách một cách lặng thầm chứ không khoa trương. Bởi hơn ai hết, anh ta thấu hiểu mối quan hệ song trùng giữa văn chương và cuộc đời. Bằng tấm lòng nhân đạo cao cả, bằng quá trình lao động hăng say và khó nhọc, “sống đã rồi hãy viết”, nhà văn đem đến cho cuộc đời những trang văn bất hủ muôn đời. văn chương nghệ thuật thực sự thực hiện cái thiên chức cao cả của nó là làm cho con người tốt đẹp hơn. Hiện thực khi biến thành chất “men say”, cùng với tài năng sáng tạo một hình thức nghệ thuật độc đáo giúp tác phẩm thực sự chiếm trọn tâm hồn, trái tim độc giả. Quả thực, người nghệ sĩ đóng vai trò vô cùng quan trọng để tạo nên một trang văn thấm đẫm vị đời, hoàn thiện và nâng cao hơn đời sống tinh thần của con người.
Đến với mỗi tác phẩm văn chương, ta chợt nhận ra bao nhiêu tâm sự, bao nhiêu nỗi niềm của nhà văn khi nhìn thấy những cảnh đời khó nhọc, khi ngắm nhìn vẻ đẹp của thiên nhiên sông núi, hay khi ngẫm ra được một quy luật của cuộc đời, của lòng người vẫn thường luôn luôn vần xoay. Bức tranh của một thời đại đầy ắp những biến động,chân dung của những con người tài hoa bạc mệnh cũng đã hằn in rất sâu trong những vần thơ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Cùng với một nàng Tiểu Thanh trong “Độc Tiểu Thanh kí”, một Thúy Kiều trong “Truyện Kiều”, một người con gái đất La Thành trong “Điếu La Thành ca giả”.Nguyễn Du lại “để nước mắt rơi ướt áo” khi khóc thương cho số phận một người ca nữ thành Thăng Long trong tác phẩm thơ chữ Hán “Long Thành cầm giả ca”. Bài thơ ra đời từ những điều tai nghe mắt thấy trong hành trình đi sứ, khi tác giả trở lại thành Thăng Long, cơ nghiệp nhà Tây Sơn đã tiêu tán, chỉ còn lại một người ca nữ già, chợt thấy tiếc thương cho sự biến đổi chóng vánh của cuộc đời:
“ Người đẹp Long Thành
Họ tên không được biết
Riêng thạo đàn huyền cầm
Dân trong thành gọi nàng là cô Cầm
Tuổi cô cỡ hai mươi mốt
Áo hồng ánh lên khuôn mặt đẹp như hoa
Rượu đậm thêm nét mặt ngây thơ khả ái
Ngón tay lướt năm cung réo rắt…”
Câu thơ nói về một người con gái đẹp, có tài gảy đàn, những khúc nhạc được ví như nhạc tiên từ trên trời đưa xuống thế gian, được coi như là “báu vật Tràng An”. Lần gặp gỡ đầu tiên đã làm cho Nguyễn Du mến mộ, trân trọng. Vẫn luôn là một tấm lòng yêu mến người tài như vậy, nhưng ở đây bên cạnh sự mến mộ, nhà thơ còn bày tỏ một nỗi lòng chua xót cho số phận con người, số phận một triều đại trong thoáng chốc:
“Điệu nhạc xưa làm ta thầm nhỏ lệ
Lắng tai nghe lòng càng đau xót…
Thành quách đã chuyển, người cũng đổi thay
Nương dâu trở thành biển cả đã nhiều
Cơ nghiệp Tây Sơn cũng đà tiêu tán
Sót lại đây còn người múa ca.
Thấm thoắt trăm năm có là bao
Cảm thương chuyện cũ dùng áo thấm nước mắt
Ta từ Nam trở lại, đầu bạc trắng
Trách làm sao được sắc đẹp cũng suy tàn.
Hai mắt trừng lên tưởng nhớ chuyện xưa
Thương cho đối mặt mà chẳng nhìn nhận ra nhau.”
Nguyễn Du là con người sống qua ba thời đại biến động, nhà Lê, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn. Thơ Nguyễn Du bao giờ cũng bộc lộ rõ nét trái tim yêu thương vĩ đại của ông với cuộc đời. Mỗi trang thơ là một bức tranh hiện thực - hiện thực lịch sử mang đậm tính thời đại. Bản thân ông đã trải qua mười năm gió bụi, chứng kiến nhiều cảnh đời,vốn sống phong phú và dồi dào kết tinh trong một hồn thơ nhân đạo cao cả. Đây là bài thơ duy nhất ông nhắc đến nhà Tây Sơn, hơn nữa lại với một tấm lòng có phần thương tiếc. Đoạn thơ bộc lộ một niềm đau, hơn hết là khóc cho kiếp tài hoa gian truân, giống như chính bản thân ông mà có lần ông đã bộc bạch:
“ Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?”
(Độc Tiểu Thanh kí)
Khóc người và khóc cho cả chính mình vì nhà thơ ngẫm ra rằng, bao giờ cái gì “càng tài năng, càng thanh sắc” cũng càng bị hủy diệt nhanh chóng. Bài thơ kể về hai lần gặp người gảy đàn này là cả một câu chuyện buồn. Trên cái trục thời gian 20 năm là hai bữa tiệc quan, là thăng và trầm, là hưng thịnh và tiêu vong, là vinh và nhục, là trẻ đẹp, tài hoa và đầu bạc, phai tàn... Quá khứ hiện về trong hiện tại mà tiếng đàn xưa và tiếng đàn nay đã làm rơi bao nước măt, tê tái đau xót “như xé tấc son”... rải qua mấy chục năm dài loạn lạc, nếm đủ mùi cay đắng nghiệt ngã, người gảy đàn ở Long thành đã là một chứng nhân lịch sử, và đã cùng tác giả trở thành số phận lịch sử.Bài thơ làm người đọc đau đớn vì quy luật với cái đẹp vẫn luôn luôn nghiệt ngã, đau đớn vì thời gian đời người trôi đi quá nhanh, đau cho một kiếp người bạc bẽo bị vùi dập, càng nhớ lại sự sụp đổ của một triều đại đầy nuối tiếc trong lịch sử. Từ hiện thực nhỏ bé của một con người, nhà thơ khái quát lên hiện thực rộng lớn của cả xẫ hội. Còn mãi trong trang văn hình ảnh của một con người hay một kiếp người tài hoa bạc mệnh trong xã hội cũ, còn lại một tiếng khóc thương người và thương thân của Nguyễn Du. Nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố tự sự và trữ tình, thi phẩm đã thể hiện được một tinh thần nhân đạo cao cả; đã làm lay động lòng người đọc về cái nghịch lý giữa tài sắc và bạc mệnh, giữa tài tử với đa cùng, giúp người đọc thấm thía hơn về cái “hận”, cái “lụy” của những tài tử, giai nhân xưa, nay. Thấm thía nỗi oan trái của một kiếp người trong xã hội cũ, người đọc học được cách trân trọng nâng niu cái tài trong cuộc đời, biết yêu thương đồng cảm với những con người nhỏ bé bất hạnh hơn mình. Tác phẩm chính là một giọt mật ngọt của cuộc đời được Nguyễn Du viết lên bằng tất cả đau đớn, tiếc thương, thể hiện đầy đủ những suy ngẫm của nhà thơ về quy luật cái đẹp, cái tài trong cuộc đời. Vì vậy, bài thơ không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có giá trị nhân đạo cao cả.
Hiện thực vẫn luôn là mảnh đất màu mỡ, vẫn luôn ẩn chứa nhiều vẻ đẹp, là đóa hoa thơm ngát muôn màu đầy mời gọi đối với người nghệ sĩ. Hiện thực cuộc sống cũng như đóa hoa kia chính là chất liệu để nhà văn chuyển hóa thành tác phẩm, thành những dòng "mật ngọt" để lại cho muôn đời. Phải có tấm lòng yêu say cuộc sống, phải sống sâu sắc với cuộc đời thì mới phát hiện ra được những nét đẹp thực giản dị, gần gũi mà chứa đựng cái hồn của cả một mùa xuân xanh tươi đang cựa mình trong đó. Xuân Diệu là một nhà thơ Mới lãng mạn, tuy nhiên ông lại không hướng tới thoát li thực tại như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Ở Xuân Diệu, ta thấy được tấm lòng gắn bó thiết tha với mảnh đất trần gian, với cuộc đời trần thế. Phải chăng những dạt dào nắng gió của vùng biển Quy Nhơn quê mẹ đã hun đúc nơi ông một tâm hồn lồng lộng, tha thiết, nồng nàn và rạo rực sức sống, để hôm nay chúng ta có một thi sĩ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Xuân Diệu yêu say cuộc đời, trong thơ ông phô diễn những bức tranh cuộc sống xinh tươi, ngồn ngộn tựa chừng như thiên đường ngay nơi mặt đất, như bữa tiệc của tạo hóa, của trần gian. Trong "Vội vàng", đó là hình ảnh của một mùa xuân đương ở độ viên mãn nhất:
“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”
Bài thơ như dắt chúng ta qua những chặng đường để khám phá từng vẻ đẹp của mùa xuân: có “hoa” của “đồng nội xanh rì”, “hoa” vốn là biểu tượng của cái đẹp, của sức sống đang ở độ căng tràn viên mãn lại được đặt trong không gian đồng nội là không gian quen thuộc cùng với màu “cỏ xanh rì” - màu xanh đậm không có sự pha trộn càng làm cho không gian thêm nhân rộng dài ra mãi; có “lá của cảnh tơ phơ phất” mang đến một vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng; có âm thanh của “khúc tình si” - là khúc nhạc say đắm của tình yêu lứa đôi làm cho thiên nhiên càng thêm sống động trữ tình. Xuân Diệu còn thêm vào trong thơ của mình thứ ánh sáng ban mai tinh khiết “ánh sáng chớp hàng mi”, mỗi buổi sớm con người đón nhận ánh bình minh là thứ ánh sáng tỏa ra từ đôi mắt đẹp của một vị thần có tên gọi là thần Vui, nhà thơ đã mang vẻ đẹp của cuộc sống trần gian lên tầm vóc thần thoại sử thi và làm cho bức tranh thiên nhiên thêm vẻ lãng mạn tình tứ và cảnh kì ảo như ở cõi tiên. Đặc biệt hình ảnh “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” đã hoàn chỉnh bức tranh thiên nhiên mùa xuân, cách dùng tính từ độc đáo “ngon” càng nhấn mạnh sức hấp dẫn tuyệt đối của mùa xuân, lại được đặt trong tương quan so sánh với “cặp môi gần” thể hiện quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của Xuân Diệu. Trong văn học Trung Đại thiên nhiên được coi là chuẩn mực của cái đẹp, cho nên vẻ đẹp rực rỡ lộng lẫy của chị em Thúy Kiều đã được Nguyễn Du so sánh với những hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên: “ Làn thu thủy, nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” còn với Xuân Diệu con người mới là chuẩn mực của cái đẹp, vẻ đẹp của thiên nhiên được so sánh với vẻ đẹp con người. Cho nên hình ảnh so sánh đã tạo nên một sự đỉnh điểm của bức tranh mùa xuân. Như vậy đoạn thơ trên đã mở ra hình ảnh một thiên đường trên mặt đất với vẻ đẹp sức sống đạt đến độ lí tưởng mà thiên đường ấy lại không hề xa xôi, nó hiện hữu cụ thể rất gần với con người. Qua đó người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của một con người yêu đời, luôn gắn bó với hiện thực, ham sống tham sống mãnh liệt. Càng yêu cuộc sống Xuân Diệu càng nuối tiếc khi nó bị mất đi, cho nên nhà thơ luôn muốn níu giữ thời gian, níu giữ cái đẹp, và luyến tiếc tuổi trẻ. Nhà thơ nhận ra sự hữu hạn của thời gian, sự ngắn ngủi của đời người. Khác với những nhà thơ xưa quan niệm thời gian là tuần hoàn, vạn vật nhất thể, Xuân Diệu quan niệm thời gian tuyến tính nghĩa là thời gian được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều từ quá khứ,hiện tại đến tương lai, một đi sẽ không bao giờ quay trở lại, cho nên với nhà thơ ngay trong cái đẹp “còn non” của mùa xuân đã chất chứa một tương lai “sẽ già”, cảnh vật đang tàn lụi ngay trong sức sống căng tràn, viên mãn. Ở đây nhà thơ đã đồng nhất thời gian vật lí là mùa xuân với thời gian đời người là tuổi trẻ- tuổi của những khát khao, những ước mơ, những phá cách, tuổi của sự nhiệt huyết và lòng ham sống. Nhà thơ đã nhận ra những nghịch lí trong cuộc đời con người: “lòng tôi rộng” >< “lượng trời chật” , “xuân vẫn tuần hoàn” >< “ tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” , “còn trời đất” >< “chẳng còn tôi mãi”, đó là sự đối lập giữa cái hữu hạn và cái vô tận, nhà thơ nhận ra mỗi con người chỉ là một cá thể nhỏ bé của vũ trụ bao la vô cùng. Vì vậy ẩn chứa trong câu thơ là một nỗi buồn, sự tiếc nuối khôn nguôi. Từ đó nhà thơ đã đề ra một phương thức sống vội vàng, sống cao độ trong mỗi phút mỗi giây, tấm lòng khao khát mãnh liệt của thi sĩ xuất hiện qua những điệp khúc: ta muốn “ôm”, muốn “riết”, muốn “say”, muốn “thâu”, muốn “cắn” nhà thơ như muốn thu hút tất cả để có thể hòa làm một với mùa xuân, cuộc sống, đặc biệt cụm từ “ta muốn cắn” là đỉnh cao của khát vọng, của sự dâng trào cảm xúc không nén nổi : “ Sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn/ Sống toàn thân và thức nhọn giác quan”. Đoạn thơ với cấu trúc câu thơ theo mạch đối thoại giống như một tuyên ngôn sống, Xuân Diệu muốn gửi đến và chia sẻ với mọi người niềm khát khao sống mạnh mẽ, nhịp điệu sống, tốc độ sống hối hả để đón nhanh, bắt trước vẻ đẹp của cuộc sống trần gian. Tất cả đó đều là tấm lòng gắn bó với cuộc ðời cả!
Từ đó bài thơ đem đến cho người đọc những bài học giá trị mà nhà văn gửi gắm. Đó là một quan niệm nhân sinh mới mẻ, tiến bộ rằng hạnh phúc không phải ở chốn xa xôi, hay cõi bồng lai hư ảo mà nó ở ngay đây, ngay giữa cuộc đời này, ngay trong từng khoảnh khắc mà chúng ta đang sống, cho nên hãy đừng mơ mộng nữa, hãy biết yêu mến vẻ đẹp cuộc sống này khi còn có thể. Nói về quan niệm thời gian tuyến tính nhà thơ muốn chúng ta hãy trân trọng thời gian, trân trọng tuổi trẻ, nâng niu từng phút giây trong cuộc đời mình, bởi vì giống như tuyết mùa đông trên bãi cỏ mùa hè, thời gian đã qua là thời gian đã mất và có ý thức làm sao cho mỗi khoảnh khắc cuộc đời đều trở nên có ý nghĩa, giống như có người đã từng nói “Hãy có thời gian cho cả công việc và hưởng thụ; khiến mỗi ngày vừa hữu ích vừa thoải mái, và chứng tỏ rằng bạn hiểu giá trị của thời gian bằng cách sử dụng nó thật tốt. Và rồi tuổi trẻ sẽ tươi vui, và tuổi già không có nhiều hối tiếc, và cuộc đời sẽ là một thành công tươi đẹp”. Nhà thơ còn đem đến một lời khuyên về phương thức sống vội vàng, sống cao độ trong mỗi phút mỗi giây, sống nhanh sống nhiều. Tuy nhiên ta cũng nên hiểu sống vội vàng không phải là lối sống tư sản ích kỷ mà là sống hết mình, sống có trách nhiệm với cuộc đời để cuộc sống của mình có ý nghĩa, để ghi được dấu ấn cá nhân của mình trong cuộc đời. Quan niệm nhân sinh mới mẻ trong bài thơ đã nhắn nhủ với người đọc phải biết giữ gìn, nâng niu, trân trọng giá trị của cuộc sống và phải biết sống sao cho có ích. Vậy nhờ sống sâu sắc với đời cùng việc phản ánh hiện thực cuộc sống ấy vào trong tác phẩm - một hiện thực tươi đẹp nhưng cũng chóng phai tàn, Xuân Diệu đã lưu giữ được vẻ đẹp cuộc sống mãi mãi trong trang văn như ước muốn của ông. Đồng thời, ông gửi vào đó những quan niệm thẩm mĩ, quan niệm nhân sinh, những bài học đầy giá trị giúp con người sống tốt hơn, sống có ích hơn trong cuộc đời. Vậy là những “mùa hoa” ông ấp ủ lưu giữ đã trở thành “mật ngọt” tỏa hương tới muôn đời.
Quá trình lao động nghệ thuật gian khổ cần lắm những người nghệ sĩ tâm huyết, sống sâu sắc với đời bằng một trái tim nhân đạo lớn. Bởi cuộc đời không chỉ được vẽ lên từ những mảng màu tươi sáng mà vẫn còn đâu đó những gam màu tối, những góc khuất trong lòng người, trong xã hội. Phản ánh hiện thực với những cái xấu, cái ác, lưu giữ lại những mặt trái ấy có thể khiến tác phẩm không trở thành một giọt mật “ngọt”, nhưng sẽ là một giọt mật quý và đầy giá trị. Bởi văn chương không thể chỉ ngợi ca, như thế sẽ làm cho con người trở nên ảo tưởng về thế giới thực. Phản ánh cuộc đời như nó vốn có, bao gồm cả những đau khổ, bất công, tiêu cực cũng là một cách giúp cho con người có cái nhìn toàn diện, dám đối mặt với cái ác, cái xấu để lên án nó, loại trừ nó, làm cho cuộc đời thêm phần tốt đẹp. Và Nam Cao chính là người phản ánh lên trang văn mảng hiện thực nghiệt ngã đó. Là nhà văn luôn quan niệm “ Sống đã rồi hãy viết” luôn lặn ngụp mình trong cuộc đời của nhân dân, kể cả những hạng người lao khổ, bần cùng nhất của xã hội, Nam Cao đã lấy chính những chiêm nghiệm từ cuộc đời của một người trí thức, một người cầm bút của mình để phản ánh một cách chân thực bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản trong xã hội cũ. Trong “Đời thừa”, nhân vật Hộ bị đặt giữa những giằng xé của lý tưởng - hiện thực nghiệt ngã, của tình thương. Là kẻ có tâm, có tài, Hộ say mê văn chương đến độ coi văn chương là lí tưởng, là lẽ sống. Anh tự hào vì có được một tâm hồn nhạy cảm, phong phú và cho rằng không có lạc thú vật chất nào so sánh được. Hộ quyết tâm biến hoài bão lớn lao mà anh hằng ôm ấp thành hiện thực.Nhưng bi kịch thực sự đến với Hộ từ ngày anh mang trên vai mình gánh nặng gia đình. Nói cách khác, bi kịch đến với Hộ từ ngày anh gắn đời mình với Từ. Những lo lắng liên miên về vật chất, những bận rộn tẹp nhẹp vô nghĩa lí của đời sống cơm áo hằng ngày mà anh phải lo cho gia đình đã choán hết tâm trí, thời gian. Hộ đã bị đồng tiền làm cho khốn đốn. Để nuôi sống cả một gia đình không thể không có tiền. Hộ thấy tất cả sự nhục nhã của một người đàn ông không nuôi nổi vợ con. Thế là anh đành phải lao vào kiếm tiền. Vậy nhưng Hộ lại không có tài cán gì ngoài việc cầm bút viêt văn. Anh không như văn sĩ Hoàng trong “Đôi mắt” của Nam Cao còn có tài chợ đỏ chợ đen vì Hoàng là một tên trí thức nửa mùa, vậy nên muốn kiếm tiền chỉ còn cách viết. Như một quy luật tất yếu, muốn kiếm được nhiều tiền thì phải viết nhiều. Muốn viết nhiều sẽ phải viết nhanh. Mà để viết cho nhanh thì phải viết ẩu. Như vậy Hộ trở thành người cẩu thả văn chương từ bao giờ không hay biết. Giờ đây, Hộ chỉ viết được mấy bài báo vô cùng nhạt nhẽo để độc giả “đọc rồi quên ngay sau khi đọc”. Mỗi một lần đọc văn của mình, Hộ lại thấy nhục nhã, tự sỉ vả mình bằng những lời thật thậm tệ: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Như vậy, có hoài bão đẹp mà không thực hiện được, đây được xem là bi kịch đầu tiên của văn sĩ Hộ. Tấn bi kịch của Hộ chính là xuất phát từ tình yêu nghề và những khát khao cháy bỏng. Cái hiện thực đau lòng của người nghê sĩ được Nam Cao miêu tả đầy giằng xé, xót xa. Chưa hết, hiện thực cuộc sống trong “Đời thừa” còn được phản ánh qua một bi kịch khác nữa của cuộc đời Hộ. Đó là bi kịch của con người coi tình thương là nguyên tắc sống cao nhất, sẵn sàng hi sinh tất cả cho tình thương nhưng tại phải sống tàn nhẫn, thô bạo với vợ con, chà đạp lên nguyên tắc sống do mình đặt ra. Vậy đâu là nguồn gốc nỗi đau giằng xé con người Hộ? Cả hai bi kịch của anh đều phản ánh một mâu thuẫn của xã hội: người có tài, có tâm muốn sống đẹp, sống tốt thì lại phải khốn khổ. Bản chất của Hộ là người tốt. Anh quan niệm kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình. Hộ đã cứu giúp Từ, một cô gái lỡ làng và cưới Từ làm vợ. Hộ đã cúi xuống nỗi đau khổ của Từ; thực hiện một hành vi như người ta làm việc nghĩa. Những đắng cay của cuộc đời mà Hộ phải nếm trải nhiều khi khiến lòng tốt cảu anh bị che mờ bởi những phẫn nộ với cuộc đời. Bế tắc, anh tìm đến rượu để giải sầu, và đây chính là một ngã rẽ đau đớn trong đời Hộ để mỗi lần tỉnh rượu, Hộ lại ân hận, xót xa. Anh xin lỗi vợ trong tiếng khóc nghẹn ngào: “Anh chỉ là một thằng khốn nạn!”. Muốn thoát khỏi tình trạng đời thừa, Hộ chỉ còn một cách là rũ bỏ trách nhiệm đối với gia đình, thoát li vợ con để rảnh rang theo đuổi giấc mộng văn chương. Nhưng vốn nhân hậu, anh không thể chấp nhận sự tàn nhẫn. Với Hộ, tình thương là tiêu chuẩn xác định tư cách làm người. Không có tình thương, con người chỉ là một thứ quái vật: “Hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường. Nhưng hắn còn được là người”. Vì thế, anh đã hi sinh nghệ thuật để giữ lấy tình thương. Phải từ bỏ hoài bão lớn, anh âm thầm đau khổ, u uất, day dứt, nhất là khi gặp lại các bạn văn chương. Hộ lâm vào bế tắc, sống trong hiện thực nghiệt ngã và đau khổ đến cùng cực.
Như vậy rõ ràng, khi viết về cuộc đời của người trí thức, những nhân vật như Hộ, như Thứ, như Điền có thể coi đều là sự hóa thân của nhà văn. Nhận định về vấn đề này, Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Nam Cao là người tự nguyện nộp mạng mình cho Văn Chương”. Chính vì dâng hiến hết bản thân mình cho đời cầm bút, Nam Cao đã thực sự khơi được lòng cảm thương sâu sắc nơi người đọc. Đọc “Đời thừa” ta đã hiểu được những khó khăn trăn trở để có thể sáng tác nên được một tác phẩm đi vào lòng người . Người nghệ sĩ phải lắng mình nghe tiếng thở của đời, phải trăn trở bao đêm mà suy nghĩ về ý nghĩa đích thực cái nghề cầm bút ấy. Muốn tìm ra được chân lý của văn chương đâu phải ngày một ngày hai mà ra được, đó phải là sự suy tư, đúc rút cả một đời, phải là đam mê cháy bỏng và khao khát đầy mãnh liệt. Và đọc “Đời thừa” ta cũng hiểu thêm về cuộc sống con người trong xã hội cũ, khổ sở vì gánh nặng cơm áo. Tác phẩm đã cho ta cái nhìn chân thực về xã hội và giúp ta yêu thương hơn những con người cùng khổ, đặc biệt là dành sự trân trọng với người nghệ sĩ và quá trình lao động nghệ thuật gian khổ của họ. “Đời thừa” chính là bức tranh hiện thực, cũng chính là những bài học về sáng tạo nghệ thuật bài học cuộc đời mà Nam Cao gửi đến bạn đọc hôm nay, và mãi mãi còn vẹn nguyên giá trị.
Sáng tạo nghệ thuật cần đến sự dày công, tâm huyết, luôn luôn tìm tòi, luôn luôn khám phá những góc nhìn mới về cuộc sống để hiện thực trong tác phẩm văn học ngày càng toàn diện hơn, sâu sắc hơn. Nguyễn Minh Châu thực sự đã thực hiện một “cuộc hành trình” đổi mới cách nhìn hiện thực trong văn học. Ông đã tạo ra được những “giọt mật” rất lạ, đã kiếm tìm hiện thực ở một bề sâu hơn, nơi con người không còn được “thần thánh hóa” như trong thơ ca cách mạng, nơi chiến tranh hiện lên với những nỗi đau thương và mất mát. Nhưng từ việc phản ánh những đau thương mà nhà văn đem đến cho người đọc một cái nhìn hiện thực lịch sử chính xác nhất, gửi gắm được những bài học nhân văn giá trị. Hơn hết, tác phẩm thể hiện những tìm tòi, trăn trở của Nguyễn Minh Châu về hiện thực, một hiện thực thời hậu chiến. Đọc “Cỏ lau” chúng ta nhận ra rằng chiến tranh đã đi qua, đất nước đã bình yên nhưng cuộc sống của những con người trở về sau những đổ nát không thể bình yên – họ phải đối mặt với chất chồng khó khăn. Cái nhìn về hiện thực khốc liệt của Nguyễn Minh Châu trong “Cỏ lau” mang âm hưởng của nỗi đau, nỗi xót xa không dứt. Chiến tranh đã để lại những vết thương rất sâu cho con người. Đó là Lực nhân vật có cuộc đời thật nghiệt ngã, trớ trêu và đầy bi kịch. Đi qua hai cuộc chiến tranh, anh đã để lại ở chiến trường 24 năm tuổi trẻ và đau đớn nhận ra: “Chiến tranh,…nó như một nhát dao phạt ngang mà hai nửa cuộc đời tôi bị chặt lìa thật khó gắn lại như cũ”. “Nhát dao” khổng lồ ấy chỉ phạt ngang cuộc đời của Lực mà khủng khiếp hơn, nó còn để lại trong lòng quê hương của anh những vết thương không bao giờ kín miệng. Ở mảnh đất đó, người cha mất con, vợ mất chồng, con gái mất người yêu. Cũng ở mảnh đất đó, chiến tranh đã tàn phá khốc liệt đến nỗi không còn nổi một viên gạch lành. Những người con gái chờ chồng, chờ người yêu cũng sống trong sự bi kịch, đau khổ. Đó là Thai trước sự trở về của Lực khi số phận hai người tưởng đã an bài, khi Thai đang sống với một người chồng khác chỉ càng làm đau thêm cái vết thương vẫn âm ỉ đau trong suốt những năm qua. Còn Phi Phi, hình ảnh một cô gái tìm hài cốt người yêu trong một buổi chiều tím bâng quơ, giữa tiếng hát buồn man mác gợi cho chúng ta hiểu rằng “chiến tranh không phải trò đùa”. Cũng trong tác phẩm này, Nguyễn Minh Châu còn bộc lộ một nỗi lo khác không kém phần day dứt đó là lo âu về sự biến chất, sự tha hóa của con người bởi chiến tranh. Một nhân vật trong tác phẩm này đã cay đắng nhận ra rằng: “chiến tranh làm cho người ta hư đi hơn là làm cho người ta tốt hơn”. Lực đã phải công nhận sự thật chua chát đó ngay trong chính bản thân mình: “vì một cơn giận với người khác, lại một chút tư thù đầy nhỏ nhen với người lính mà tôi đã đưa người lính đi vào chỗ chết”. Để gợi nên ý niệm về số phận khổ đau, trớ trêu của những con người sau cuộc chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã sử dụng các biểu tượng” cở lau, hòn vọng phu, ngôi mộ”… rất thành công. Ông cũng rất tinh tế khi đưa vào tác phẩm của mình những thanh âm buồn da diết của bài hát “Mùa xuân”. Những tâm tư của nhân vật là thật hơn khi người kể chuyện chính là người trong cuộc. Bằng những cách ấy, Nguyễn Minh Châu đã bộc lộ nỗi lo khắc khoải khôn nguôi của mình về số phận con người sau cuộc trường chinh vĩ đại. tác phẩm khắc sau trong tâm trí người đọc một hiện thực nghiệt ngã, một góc khuất phía sau ánh hào quang của chiến thắng, đánh thức lại trong chúng ta suy ngẫm về số phận con người sau cuộc chiến tranh, nhắc nhở chúng ta cái giá của hòa bình và trách nhiệm sống một cuộc đời ý nghĩa. Tác phẩm không có một hiện thực long lanh nhưng vẫn làm người ta “say” vì nó chất chứa nhiều suy ngẫm, vì nó thể hiện sâu sắc tấm lòng của Nguyễn Minh Châu luôn trăn trở về cuộc đời, về con người. Trên hành trình lao động nghệ thuật miệt mài của Nguyễn Minh Châu, “Cỏ lau” là một điểm sáng kết tinh giá trị hiện thực, nhân đạo cao cả, mãi nhắc nhở chúng ta về một “mùa hoa” đã qua, nhắc nhở con người biết sống tốt hơn, sống một cuộc đời xứng đáng với sự hi sinh của lớp người đi trước. Đó là một trong những “giọt mật” trong đời văn mà Nguyễn Minh Châu đã đã chắt chiu và gìn giữ cho con người mai sau.
Như vậy, những câu thơ của Nguyễn Đức Mậu đã đề cao vai trò của hiện thực cuộc sống trong tác phẩm văn học, cũng như vai trò của nhà văn đối với bạn đọc. Từ đó, ý thơ đặt ra bài học cho cả người cầm bút và người tiếp nhận. Đối với người nghệ sĩ: nhà văn phải luôn gắn bó với hiện thực, tìm tòi ở hiện thực những vấn đề có ý nghĩa để phản ánh trong tác phẩm, sống sâu sắc, lặn ngụp giữa “ bể đời” để chắt chiu những gì tinh túy nhất; hơn nữa sau khi “hòa mình vào cuộc sống của nhân dân” phải chú ý đến phương thức chuyển tải hiện thực đến người đọc, phải chọn được phương thức phù hợp nhất với mình và với nội dung truyền tải để đạt được hiểu quả cao nhất, gây được ấn tượng mạnh mẽ nhất. Với độc giả: cần cảm nhận tác phẩm bằng cả trái tim thì mới có thể thấu hiểu hết hiện thực cuộc sống, thông điệp thẩm mĩ mà tác giả gửi gắm, tùy từng hoàn cảnh, từng thời điểm lịch sử, từng cảnh ngộ con người mà bạn đọc phải đặt mình vào vị trí của nhân vật để cảm nhận ước mơ, lí tưởng, con đường đấu tranh cho chân lí, quan điểm về cuộc đời và về lẽ thiện – ác của họ.
Thạch Lam từng có một câu nói rất hay: “Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên ; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. Văn học bắt nguồn tự mảnh đất hiện thực, nở hoa lên từ bất cứ mảnh đời nào và luôn đem đến cho con người những quan niệm, lẽ sống, những bài học nhân sinh giá trị. Với những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc ấy, văn học trở thành “chất men say” làm lay động lòng người, lan tỏa cả đất trời, bất tử, trường tồn trong dòng chảy nghiệt ngã của thời gian.
Nguồn: Nhóm tác giả Nguyễn Thanh Xuân, Phan Thị Thu Hiền, Trần Thị Thanh
Trường THPT Chuyên Hùng Vương Phú Thọ