Banner cho bài viết:PHÂN TÍCH VĂN BẢN: NỖI BUỒN QUẢ PHỤ (TRÍCH AI TƯ VÃN - LÊ NGỌC HÂN)

PHÂN TÍCH VĂN BẢN: NỖI BUỒN QUẢ PHỤ (TRÍCH AI TƯ VÃN - LÊ NGỌC HÂN)

PHÂN TÍCH VĂN BẢN: NỖI BUỒN QUẢ PHỤ (TRÍCH AI TƯ VÃN - LÊ NGỌC HÂN) 

 

“Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi:

Gương Hằng Nga đã bụi màu trong!

Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,

Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.

 

Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn:

Cánh hải đường đã quyện giọt sương!

Trông chim càng dễ đoạn trường:

Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.

 

Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy.

Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu!

Phút giây bãi biển nương dâu,

Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?”

 

Bài viết tham khảo:

Tố Hữu từng nói: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời.” Những cảm xúc chân thật nhất của con người thường được gửi gắm vào những câu thơ, khiến thơ trở thành tiếng nói tâm hồn đầy tha thiết. Tác phẩm Ai tư vãn của công chúa Lê Ngọc Hân chính là một áng thơ trác tuyệt, phản ánh nỗi đau mất mát và tình yêu sâu sắc của một người phụ nữ trước sự ra đi của người chồng yêu thương. Đặc biệt, đoạn trích “Nỗi buồn quả phụ” là tiếng khóc xé lòng, đầy xót xa và bi lụy, làm lay động trái tim người đọc:

Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi:

.....

Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?”

Lê Ngọc Hân, con gái thứ 21 của vua Lê Hiển Tông, không chỉ nổi tiếng là người tài sắc vẹn toàn mà còn là một nhà thơ tinh tế, giàu cảm xúc. Năm 16 tuổi, bà trở thành vợ của Nguyễn Huệ (vua Quang Trung), một cuộc hôn nhân mang màu sắc chính trị nhưng lại đầy tình yêu thương chân thành. Tuy nhiên, hạnh phúc không kéo dài khi vua Quang Trung đột ngột qua đời vào năm 1792. Cú sốc mất chồng cùng trách nhiệm nuôi hai con nhỏ khiến bà rơi vào cảnh ngộ đau thương. Trong nỗi đau cùng cực ấy, bà đã sáng tác Ai tư vãn – bài thơ vừa là tiếng khóc thương chồng, vừa là lời bày tỏ nỗi niềm của chính mình trước nghịch cảnh.

Đoạn trích “Nỗi buồn quả phụ” nằm ở phần cuối của bài thơ, nơi nỗi đau và sự tuyệt vọng của bà đạt đến đỉnh điểm. Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, khung cảnh thiên nhiên đã nhuốm màu sầu thảm, phản chiếu tâm trạng của người góa phụ:

“Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi:
Gương Hằng Nga đã bụi màu trong!”

Trăng – biểu tượng của sự viên mãn, vẹn tròn – nay lại “mờ” và “bụi màu”, như chính cuộc đời bà đã mất đi ánh sáng của hạnh phúc. Người quả phụ đứng trước nỗi buồn, ngước nhìn lên trăng với mong ước giải bớt nỗi u sầu nhưng thật khó vì trăng cũng không còn trọn trịa, đầy đặn như một thời quá khứ viên mãn. Phải chăng, “trăng mờ” chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay là do giọt nước mắt còn vương trên mi nàng đã làm cho trăng cứ thế mờ đi mãi. Hình ảnh gương Hằng Nga trở nên nhạt nhòa, không còn trong trẻo, soi tỏ như xưa, khiến người quả phụ càng thêm xót xa và tủi hổ khi nhìn lại chính mình.

Lặng ngắm mình trước gương, thi sĩ lại càng thấy hổ thẹn với lòng mình hơn:

“Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,

Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.”

Cứ ngỡ cuộc tình này là một mối lương duyên trời ban, nhưng khi đứng trước thực tại âm dương cách biệt, nhìn lại hiện thực phũ phàng, chỉ thấy lòng người càng thêm lạnh giá. Thương cho chồng chốn biên cương lạnh lẽo, cũng thương cho số phận hẩm hui của chính mình.

Nỗi buồn của người quả phụ ấy đã ngấm sâu vào cả trong những bông hoa trong vườn. Quanh quẩn buồn chán, ngắm nhìn những bông hoa, nhưng nào biết rằng hoa cũng đã nhuốm màu tâm trạng của chính mình:

“Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn:

Cánh hải đường đã quyện giọt sương!”

Hoa hải đường, loài hoa tượng trưng cho sự tốt đẹp, nay lại rũ xuống, đẫm giọt sương như đang khóc thương cho số phận người phụ nữ bất hạnh. Đôi mắt của bà trông đâu cũng chỉ thấy sự chia lìa, mất mát:

“Trông chim càng dễ đoạn trường:
Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.”

Việc sử dụng các hình ảnh trên kết hợp cùng lớp từ ngữ: buồn”, “tủi”, “thẹn”, “lạnh lẽo”, “quyện”, “lẻ đôi”... góp phần làm tăng thêm màu sắc u buồn, bi lụy cho câu thơ; nhấn mạnh và xoáy sâu vào trong nỗi buồn của người quả phụ. Ngoài ra, ta còn thấy sự tài năng của tác giả được thể hiện qua các biện pháp tu từ như điệp từ, điệp cấu trúc “Buồn trông”, “buồn xem”, “nhìn gương”, “trông chim”... đã góp phần thể hiện tâm trạng: khiến cho nỗi buồn cứ trở đi trở lại trong những vần thơ, mang một cảm thức não nùng thê lương. Cũng như giúp cho bài thơ trở nên nhịp nhàng, uyển chuyển, tăng thêm giá trị nghệ thuật cho bài thơ. Hay là biện pháp tu từ nhân hóa: hoa buồn, uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi làm cho vạn vật trở nên có hồn hơn, từ đó nỗi sầu cũng bao trọn không gian.

Sự kết hợp của các từ hình ảnh và từ ngữ trong hai khổ thơ trên đã nhuốm lên trang thơ một màu sắc bi thương khó tả. Người quả phụ nhìn lên trăng, thấy trăng mờ, nhìn xuống hoa chỉ thấy hoa tàn úa. Một mình cô đơn trong phòng khuê lạnh lẽo, đến bầu bạn cùng hoa cũng chỉ thấy hoa đã tàn úa. Nỗi buồn cứ thế lan dần ra, chiếm hết mọi ngõ ngách không gian.

Nếu hai khổ thơ trước, Lê Ngọc Hân khắc họa nỗi buồn của mình hòa vào thiên nhiên cảnh vật, thì tới khổ thơ tiếp theo ta như được nghe thấy tiếng lòng ai oán của nàng về cuộc tình hẩm hiu của chính mình:

“Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy.

Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu!

Phút giây bãi biển nương dâu,

Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?”

Ngắm nhìn cảnh vật, người quả phụ chỉ thấy một màu đau buồn tang tóc. Trở về thực tại, về với chính cõi lòng của mình, nàng thấy tiếc thương cho những tháng năm hạnh phúc trong quá khứ, cho cuộc tình oái ăm này. Thành ngữ “Bãi bể nương dâu” được tác giả sử dụng để chỉ những biến cố, những thay đổi lớn trong cuộc đời. Ở đây, đó chính là cái chết của vua Quang Trung, một sự mất mát vô cùng to lớn trong cuộc đời của công chúa Ngọc Hân. Các từ ngữ “ngùi ngùi”, “còn thấy chi đâu”, “bãi biển nương dâu”... có tác dụng trong việc miêu tả một cuộc đời không mấy thuận lợi. Làm tăng thêm nỗi buồn, sự ai thán về cuộc đời của người quả phụ. Việc sử dụng thành ngữ cùng với câu hỏi tu từ “cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?” như chính là một lời trách cứ cho số phận của mình, cũng như thể hiện sự bất lực của nàng trước sự xoay chuyển của cuộc đời. Khổ thơ là tiếng lòng xót thương cho cuộc đời của mình, là nỗi đau buồn khi phải sống trong cảnh quá phụ cô đơn lẻ chiếc một mình.

Chỉ vỏn vẹn trong ba khổ thơ ngắn, đoạn trích “Nỗi buồn quả phụ” đã khắc họa rất thành công nỗi buồn triền miên, sự đau khổ trong tâm hồn của tác giả cũng như thể hiện tình yêu mà nàng dành cho người chồng của mình. Và để có thể chuyển tải một cách sâu sắc tâm trạng cũng như tấm lòng của Ngọc Hân dành cho Quang Trung, đoạn trích đã xây dựng rất thành công một số biện pháp nghệ thuật, đặc biệt phải kể đến bút pháp tả cảnh ngụ tình. Xuyên suốt đoạn trích, cảnh vật thê lương, ảm đạm: trăng mờ, hoa buồn, hải đường quyện giọt sương, uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi... Không có một hình ảnh nào ấm áp, vui tươi. Nỗi buồn của nàng đã ngấm sâu vào trong cảnh vật, làm cho mọi thứ nhuốm một màu sắc bi thương, u tối. Bên cạnh đó, việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh chọn lọc cùng các biện pháp tu từ độc đáo cũng đã góp phần làm nên thành công của đoạn trích. Từ đó ta có thể thấy được sự tài năng của tác giả.

Đoạn trích “Nỗi buồn quả phụ” không chỉ là tiếng lòng của một người phụ nữ mất đi người chồng yêu thương mà còn là một bài ca về tình yêu chung thủy, sâu sắc. Tình cảm chân thành, tha thiết ấy đã làm nên giá trị bất hủ cho tác phẩm. Đọc đoạn thơ, ta không khỏi liên tưởng đến nỗi cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm:

“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phùn.”

Dù mỗi tác phẩm mang một hoàn cảnh và sắc thái riêng, nhưng cả hai đều thể hiện tài năng miêu tả tinh tế và lòng đồng cảm sâu sắc của những người phụ nữ tài hoa trong văn học trung đại.

Đoạn trích “Nỗi buồn quả phụ” là tiếng lòng chân thành và đầy xót xa của công chúa Lê Ngọc Hân khi mất đi người chồng yêu thương. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình độc đáo, giọng thơ da diết, cảm xúc mãnh liệt, đoạn thơ không chỉ để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc mà còn là minh chứng cho tài năng và tình cảm chân thành của bà. Tác phẩm vẫn sống mãi với thời gian, nhắc nhở chúng ta về giá trị của tình yêu và sự thủy chung trong cuộc sống.

Nhận xét từ người dùng

Chatbot Icon
Trợ Lý Văn Học ×
SALE - 70% Shopee