Banner cho bài viết: HƯỚNG DẪN VIẾT ĐOẠN  VĂN 200 CHỮ THI THPTQG 2025 - CẢM NHẬN VỀ VẺ ĐẸP CỦA NHÂN VẬT TÁM KHOA TRONG TRUYỆN NGẮN HAI NGƯỜI CHA.

HƯỚNG DẪN VIẾT ĐOẠN VĂN 200 CHỮ THI THPTQG 2025 - CẢM NHẬN VỀ VẺ ĐẸP CỦA NHÂN VẬT TÁM KHOA TRONG TRUYỆN NGẮN HAI NGƯỜI CHA.

ĐOẠN VĂN 200 CHỮ CẢM NHẬN VỀ VẺ ĐẸP CỦA NHÂN VẬT TÁM KHOA TRONG TRUYỆN NGẮN HAI NGƯỜI CHA CỦA LÊ VĂN THẢO.
Đọc văn bản sau:

Mấy tháng sau ngày giải phóng, độ cuối năm, Tám Khoa vẫn còn ở trong doanh trại quân đội. Một hôm có đứa con trai chừng mười lăm tuổi tìm đến hỏi đúng tên họ ông, nói:
“Ba là ba của con”.
Tám Khoa chưng hửng, nhưng chưa vội nói gì cả, ngắm nghía đứa nhỏ. Nó trông dễ thương quá, mắt sáng long lanh cao lớn khỏe mạnh, bận bộ đồ bà ba đen lấm bụi, chiếc túi xách nhỏ choàng chéo qua vai, hẳn đi từ xa tới. Nó nhìn ông cười mãi trong niềm vui khôn tả. Ông nghĩ bụng: “Khoan đã, để coi sao đã, chắc có sự nhầm lẫn gì đây. Tạm thời cứ như vậy đã”. Thế là ông không nhận cũng không từ chối, nói vòng quanh lập lờ để dò la tìm hiểu:
“Con đi xa lắm phải không? Đói bụng không? Nghỉ đi, rồi kể mọi chuyện cho ba nghe”.
“Con tên Thanh”, đứa nhỏ kể. “Má chết rồi, chắc ba không hay đâu hả?”.
“Con cực lắm! Má chết rồi bà chủ rẫy thương tình vẫn cho con ở, nhưng bắt con phải tưới rẫy. Con mới tám tuổi xách nước ì ạch lật đổ hoài, bị bà chủ la mắng. Con tủi thân. Một hôm, con trốn dưới chiếc ghe chở mía, ghe chở tuốt con về Cái Bát đổ lên một lò đường. Con thành người làm công cho lò đường từ đó, vác mía ép mía tới giờ có thể đứng máy được rồi. Con ở đây chơi với ba một thời gian rồi trở về lò đường cũng được”.
“Cứ ở đây đi”, Tám Khoa buột miệng nói.
“Con biết ba thương con. Con cực lắm sao ba không thương được. Ba coi tay con bị lá mía cắt nè, hai vai con chai cứng như có miếng da trâu ở đó. Nhưng con biết sau này ba còn sống con sẽ tìm gặp ba, hai cha con mình sống sung sướng với nhau. Má dặn rất kỹ, kể nhiều chuyện về ba, con hình dung ba giống y như vầy. Hôm giải phóng con đi tìm ba ngay, hỏi thăm nhiều người, có ông cán bộ già chỉ đường con đến đây. Con ở chung với ba được không? Con nấu cơm giặt giũ, lo mọi chuyện nhà cửa cho ba đi làm”.
“Con còn phải đi học. Con học tới đâu rồi?”.
“Con có học hành gì đâu. Hồi má còn sống, má dạy con chút đỉnh, má chết rồi con chỉ có tưới rẫy, vác mía thôi”. 
[...] “Thôi được rồi, con ở lại đây đi”, Tám Khoa nói, làm dấu chấm cuối cùng cho một quyết định mơ hồ, vô lý nhưng không thể nào cưỡng lại được.
 Bởi đứa nhỏ đâu phải con ông. Ông đúng tên họ đó, ở đơn vị đó, nhưng hồi đơn vị hành quân về Cà Mau ông đâu có đi. Cả đời ông cũng chưa từng về vùng đó. Ông có vợ con nhưng chết cả rồi, tự tay ông chôn cất, trong chiến tranh ở rừng miền Đông.
Nhưng đó là chuyện đã qua. Giờ đứa nhỏ đang ngồi trước mặt ông, dễ thương quá chừng, nôn nóng muốn gặp cha nó nên vội vã nhận lầm ông. Cũng đâu có sao! Điều quan trọng là nó chẳng còn chỗ nào đi nữa, tám tuổi đã tưới rẫy, giờ lang thang đi tìm cha trong thành phố rộng mênh mông sau ngày giải phóng rối mù như thế này. Hãy để nó ở lại đây ít ngày, ông tạm nhận là cha nó, để nó có chỗ ở. Rồi sau đó ông sẽ chỉ đường cho nó đi tìm cha, hoặc đích thân ông sẽ dẫn nó đi. Nó tìm gặp được cha rồi ông sẽ vỗ vai người đồng đội nói: “Tôi trả con cho anh đây. Tôi đã làm cha nó một thời gian, cũng thấy ấm lòng, đỡ cô đơn một thời gian”.
Quả thật ông đã ấm lòng, không phải về sau này mà ngay lúc đó. Đứa nhỏ đang ngồi trong phòng ông cao lớn khỏe mạnh, mắt sáng long lanh, tóc chải rẽ, lưng ưỡn thẳng chiếc túi xách để trong lòng. Một đứa con bỗng dưng hiện ra như thế này! Đứa con của ông không chết cũng bằng cỡ này, hãy để đứa nhỏ này thay vào chỗ đó. Chỉ ít ngày thôi, hoặc lâu hơn cũng được.
Vậy là đứa nhỏ ở với ông, kêu ông bằng ba, bởi ông giả làm như thế. Và nhiều khi ông cũng tưởng lầm như thế. Ngày tháng trôi qua, không thấy ông nói ra sự thật với đứa nhỏ, dẫn nó đi tìm cha nó. Vội làm gì, trước sau rồi nó cũng gặp cha nó thôi. Để ít ngày nữa. Giờ ông đang bận lắm, ông biện bạch như thế, thành phố mới giải phóng đang trong thời kỳ quân quản. Ông đi làm việc suốt ngày, về nhà nhìn thấy đứa con hết mệt ngay. Nó lớn lên trông thấy, chẳng mấy chốc đã cao bằng ông. Phải cho nó ngủ giường riêng, ông đặt hai chiếc giường sát cạnh nhau, đêm nằm thò tay qua nắm tay nó, giở mùng lên nhìn mặt nó. Trước đây ông ăn cơm chung với anh em ở nhà bếp, giờ ông lãnh cơm về nhà hai cha con ăn với nhau. Buổi trưa, buổi chiều hai cha con đi lãnh cơm, ông rề rà ở nhà bếp khoe với mọi người đứa con mình thế này thế nọ…
Ông quên hẳn chuyện đưa đứa nhỏ đi tìm cha nó chăng? Không, ông không quên. Ban đêm ông vẫn nằm thao thức tính đến chuyện đường đi nước bước, phải tìm đến chỗ nào gặp đơn vị nào. Nhưng ban ngày ông chỉ tính chuyện hiện tại. Phải lo cho nó đi học, tìm nhà riêng cho nó, chọn cho nó một nghề sống về sau này… Chắc cha thật nó cũng muốn như vậy. Nó lớn tồng ngồng chỉ biết đọc biết viết, không thể cho nó học trường phổ thông, nó đi học bổ túc ông phải xa nó. Cuối cùng ông quyết định cho nó học trường nghề. Ông tự mình đi nộp đơn, như chính ông đi học vậy, chọn nghề in cho gần với chữ nghĩa. Hôm nó nhập học ông cùng đi với nó, vào ngồi cùng bàn, hết giờ cùng ra về.
(Lược phần sau: Khi đứa  con học xong, có nghề nghiệp ổn định và chuẩn bị cưới vợ, ông Tám Khoa quyết định đi tìm lại cha ruột cho nó. Gặp cha ruột của con, ông biết chính người con nuôi đã biết sự thật. Anh đã thực sự coi ông như một người cha, tự nguyện nhận trách nhiệm phụng dưỡng ông tuổi xế chiều. Hai người cha vui mừng cùng chuẩn bị làm đám cưới cho người con.)
(Trích Hai người cha, Truyện ngắn Lê Văn Thảo, NXB Văn học, 2012)
 Nhà văn Lê Văn Thảo tên thật là Dương Ngọc Huy, sinh ngày 1/10/1939 tại tỉnh Long An. Năm 1965, ông bắt đầu viết văn với đề tài nông thôn, chiến tranh du kích. Năm 1968, ông tham gia chiến dịch Mậu Thân ở Sài Gòn. Sau năm 1975, ông về công tác tại Hội nhà văn TP. Hồ Chí Minh. Năm 2012, ông đạt giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật. 


ĐOẠN VĂN 200 CHỮ CẢM NHẬN VỀ VẺ ĐẸP CỦA NHÂN VẬT TÁM KHOA TRONG TRUYỆN NGẮN HAI NGƯỜI CHA CỦA LÊ VĂN THẢO.

     Truyện ngắn Hai người cha của Lê Văn Thảo đã để lại cho người đọc một ấn tượng khó phai về vẻ đẹp tình người ấm áp qua hình tượng nhân vật Tám Khoa. Để tô đậm vẻ đẹp ấy, nhà văn đặt nhân vật vào một tình huống éo le - một cậu bé xa lạ, mới tám tuổi, tìm đến nhận ông là cha. Trước hoàn cảnh đáng thương của đứa trẻ, Tám Khoa không chút do dự nhận cậu làm con. Không chỉ dừng lại ở việc cưu mang, ông còn đối xử với cậu bé bằng tất cả tình yêu thương: hạnh phúc khi thấy con mỗi ngày, chăm lo cho con từng miếng ăn, giấc ngủ, chuyện học hành và cả tương lai. Để khắc họa sự chân thành, tác giả đã khéo léo sử dụng thủ pháp độc thoại nội tâm. Trong suy nghĩ của Tám Khoa luôn tồn tại sự giằng co: một mặt ông muốn đưa cậu bé đi tìm cha ruột, nhưng mặt khác lại viện cớ lần nữa để giữ con bên mình. Tuy vậy, tình thương trong ông đã chiến thắng những toan tính ích kỉ, ông quyết định tìm lại cha ruột cho đứa trẻ. Dẫu hành động nhận cậu bé là con vốn là một lời nói dối, nhưng chắc chắn đó là lời nói dối nhân hậu nhất. Hành động người con quyết định gắn bó, phụng dưỡng ông đến cuối đời như một món quà quý giá mà cuộc đời dành tặng cho người lính già cô độc. Qua hình tượng Tám Khoa, tôi càng thấu hiểu hơn nỗi đau và tình người thời hậu chiến, để từ đó biết sống yêu thương, trân trọng hơn những giá trị của nền hòa bình hôm nay.

Nhận xét từ người dùng

Chatbot Icon
Trợ Lý Văn Học ×
SALE - 70% Shopee